Hỏi (ông Đặng T.H): Tôi có một người bạn thân, cùng vượt biên và cùng ở đảo cách đây gần 20 năm.
Sau khi đến định cư tại Úc, bạn tôi đã lập gia đình và có được hai người con, một gái một trai, hiện cả hai đang học trung học.
Cách đây chừng 5 năm, tôi không hiểu vì lý do gì, bạn tôi đã ly dị. Bạn tôi giữ lại căn nhà và một cơ sở làm ăn. Riêng người phối ngẫu của bạn tôi thì sau khi ly dị đã theo tình nhân cũ qua Mỹ sinh sống và để lại hai người con cho bạn tôi nuôi dưỡng.
Bạn tôi vẫn ở vậy nuôi con cho đến lúc bị bệnh ung thư gan và qua đời vào đầu năm 2003.
Khi qua đời, bạn tôi để lại một di chúc mà trong di chúc đó bạn tôi đã chỉ định tôi làm trustee và executor.
Tôi đã liên lạc với văn phòng luật sư để làm mọi thủ tục cần thiết. Riêng về quyền hạn của trustee và executor mà tôi đã được bạn tôi chỉ định và ủy thác cho tôi, tôi nhận thấy quá phức tạp. Nội chuyện học hành của các cháu cũng như việc đầu tư mà bạn tôi đã cho phép tôi cũng đủ có thể thấy được quá nhiều rắc rối.
Riêng việc đầu tư, với tư cách là trustee và executor, theo luật tôi nghĩ rằng tôi có quyền mua và bán lại cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Nếu một người trong trường hợp của tôi mà thiếu lương tâm hoặc trách nhiệm trong việc đầu tư thì tôi nghĩ rằng tài sản để lại sẽ bị tiêu tán trong một thời gian không bao lâu.
Xin LS cho biết là quyền hạn mà tôi được trao cho trong di chúc, nếu tôi đầu tư thất bại, đặc biệt là nếu tôi đầu tư bằng cách mua bán cổ phiếu thì trách nhiệm của tôi như thế nào.
Trả lời: Trước khi trả lời câu hỏi của ông tôi xin giải thích sơ qua về các “thuật ngữ pháp lý” (legal terminologies) để ông có thể am tường được vấn đề.
Probate (chứng thư xác nhận tính cách hợp lệ của di chúc): Giấy chứng nhận được đưa ra bởi tòa nhằm mục đích xác nhận rằng di chúc của một người nào đó đã được chứng minh là hợp lệ, và cho phép người thi hành được nêu tên trong di chúc quản lý tài sản của người quá cố. (A certificate issued by a court for the purpose of certifying that the will of a certain person has been proved as valid, and authorising the executor named in the will to administer the estate of the deceased person).
Trustee (tín thác viên, người được ủy thác để quản lý): Người được chỉ định, hoặc được yêu cầu bởi luật pháp, để nắm giữ và quản lý tài sản được ủy thác vì lợi ích của những người thụ hưởng theo những điều khoản về sự tín thác được đề ra trong văn kiện tín thác. (A person appointed, or required by law, to hold and manage property in trust for the benefit of the beneficiaries under the terms of trust stated in the trust deed).
Executor (người thi hành di chúc): Người được chỉ định bởi người để lại di chúc nhằm mục đích thực hiện các điều khoản của di chúc. (A person appointed by a testator for the purpose of carrying out the provisions of the will).
Beneficiary (người hưởng dụng, người thụ hưởng di sản): Người được quyền nhận những lợi ích trong một tài sản, di chúc, hoặc hợp đồng bảo hiểm. (A person who is entitle to receive benefits in a property, will, or insurance policy).
Sau khi qua đời, nếu một người có để lại di chúc, thì di chúc cũng không thể vì thế mà tự động có hiệu lực được. Muốn thực hiện việc chia tài sản thì thân nhân của người quá cố phải làm xong thủ tục để xin “chứng thư xác nhận tính cách hợp lệ của di chúc” (probate).
Thủ tục để xin “chứng thư xác nhận tính cách hợp lệ của di chúc”là công việc của luật sư. Vì phạm vi hạn hẹp của mục LPPT nên cá nhân tôi không thể giải thích chi tiết về cách thức tiến hành để xin chứng thư này lên đây được. Hy vọng là sẽ có một dịp khác thuận tiện hơn.
Thẩm quyền của trustee và executor đã được đề cập đến trong vụ Riddle v. Riddle (1952) 85 CLR 202. Trong vụ đó, Thẩm Phán Kitto đã tuyên bố rằng: Hậu quả của việc trao cho “tín thác viên” quyền đầu tư cổ phiếu là nếu có sự thua lỗ xảy ra đối với tiền bạc hoặc tài sản được ủy thác cho “tín thác viên” trong việc đầu tư đó, thì “tín thác viên” không có trách nhiệm phải chứng minh sự cẩn trọng trong việc đầu tư đó.
Những “người thụ hưởng” (beneficiary) muốn cáo buộc “tín thác viên” thiếu cẩn trọng trong việc đầu tư đó thì phải đưa ra bằng chứng để chứng minh.
Việc trao cho “tín thác viên” quyền đầu tư cổ phiếu đó, tự nó đã trao cho “tín thác viên” quyền hạn tự kiểm soát cho chính mình trong việc đầu tư đó.
Liên hệ đến phương cách mà trong đó quỹ tín thác được đầu tư thì “tín thác viên” chỉ bị chi phối bởi “tiêu chuẩn về sự cẩn trọng” (the standard of care) mà một người bình thường trong vị thế của “tín thác viên” cần phải lưu tâm khi quyết định đầu tư.
Vì thế, “tín thác viên,” trong trường hợp mua cổ phiếu, có trách nhiệm phải quan sát thị trường và sau đó phải thay đổi quyết định đầu tư của mình tùy theo đó.
Có những trường hợp di chúc quy định rằng “tín thác viên” có quyền đầu tư tự do, như chính bản thân của đương sự là người có quyền thừa hưởng di sản, gồm việc đầu tư trong các “tài sản không sản sinh ra lợi tức” (non-income-producing assets) chẳng hạn như các tài sản dùng để cư ngụ hoặc xử dụng bởi người thừa hưởng di sản.
Tuy nhiên, trong Di Chúc của Sherriff (in the Will of Sherriff [1971] 2NSWLR 438). Trong vụ đó, tòa đã đưa ra phán quyết rằng sự tậu mãi tài sản không nhằm vào mục đích sản sinh ra lợi tức thì không thể được xem như là một hành động đầu tư được.
Nếu người để lại di chúc muốn “người thi hành di chúc” cung cấp nơi ăn chốn ở khỏi phải trả tiền, hoặc cho những “người thụ hưởng” (beneficiary) mượn tiền mà khỏi phải trả tiền lời, thì khi lập di chúc người để lại di chúc nên ghi điều này vào trong di chúc của mình.
Dựa vào luật pháp cũng như các phán quyết vừa trưng dẫn, ông có thể thấy được rằng, nếu ông được chỉ định làm “tín thác viên” hoặc “người thi hành di chúc” thì ông có toàn quyền thi hành những điều khoản được quy định trong di chúc.
Nếu những quyền hạn trao cho ông có tính cách tổng quát thì ông có thể thi hành di chúc dựa theo sự quy định thẩm quyền của “tín thác viên” trong “Đạo Luật quy định về thẩm quyền và nhiệm vụ của Tín Thác Viên” (Trustees Act).
Khi thi hành di chúc, nếu ông xử dụng tiền bạc để đầu tư như ông đang xử dụng những đồng tiền do chính mồ hôi và nước mắt của ông làm ra, thì dù được ủy thác quyền hạn trực tiếp trong di chúc hay dựa vào sự quy định của luật pháp, ông vẫn cảm thấy thanh thản hơn nếu lỡ sự đầu tư của ông không mang lại những thành quả như ông mong đợi.
Nếu ông không thông hiểu về thị trường chứng khoán thì ông không nên đầu tư vào thị trường chứng khoán.
Tôi đề nghị trước khi quyết định đầu tư ông nên tìm gặp các chuyên viên hoặc các cố vấn về đầu tư để được cố vấn tường tận hơn.
Nếu ông còn thắc mắc xin cứ gọi điện thoại cho chúng tôi để được giải đáp.
Sau khi đến định cư tại Úc, bạn tôi đã lập gia đình và có được hai người con, một gái một trai, hiện cả hai đang học trung học.
Cách đây chừng 5 năm, tôi không hiểu vì lý do gì, bạn tôi đã ly dị. Bạn tôi giữ lại căn nhà và một cơ sở làm ăn. Riêng người phối ngẫu của bạn tôi thì sau khi ly dị đã theo tình nhân cũ qua Mỹ sinh sống và để lại hai người con cho bạn tôi nuôi dưỡng.
Bạn tôi vẫn ở vậy nuôi con cho đến lúc bị bệnh ung thư gan và qua đời vào đầu năm 2003.
Khi qua đời, bạn tôi để lại một di chúc mà trong di chúc đó bạn tôi đã chỉ định tôi làm trustee và executor.
Tôi đã liên lạc với văn phòng luật sư để làm mọi thủ tục cần thiết. Riêng về quyền hạn của trustee và executor mà tôi đã được bạn tôi chỉ định và ủy thác cho tôi, tôi nhận thấy quá phức tạp. Nội chuyện học hành của các cháu cũng như việc đầu tư mà bạn tôi đã cho phép tôi cũng đủ có thể thấy được quá nhiều rắc rối.
Riêng việc đầu tư, với tư cách là trustee và executor, theo luật tôi nghĩ rằng tôi có quyền mua và bán lại cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Nếu một người trong trường hợp của tôi mà thiếu lương tâm hoặc trách nhiệm trong việc đầu tư thì tôi nghĩ rằng tài sản để lại sẽ bị tiêu tán trong một thời gian không bao lâu.
Xin LS cho biết là quyền hạn mà tôi được trao cho trong di chúc, nếu tôi đầu tư thất bại, đặc biệt là nếu tôi đầu tư bằng cách mua bán cổ phiếu thì trách nhiệm của tôi như thế nào.
Trả lời: Trước khi trả lời câu hỏi của ông tôi xin giải thích sơ qua về các “thuật ngữ pháp lý” (legal terminologies) để ông có thể am tường được vấn đề.
Probate (chứng thư xác nhận tính cách hợp lệ của di chúc): Giấy chứng nhận được đưa ra bởi tòa nhằm mục đích xác nhận rằng di chúc của một người nào đó đã được chứng minh là hợp lệ, và cho phép người thi hành được nêu tên trong di chúc quản lý tài sản của người quá cố. (A certificate issued by a court for the purpose of certifying that the will of a certain person has been proved as valid, and authorising the executor named in the will to administer the estate of the deceased person).
Trustee (tín thác viên, người được ủy thác để quản lý): Người được chỉ định, hoặc được yêu cầu bởi luật pháp, để nắm giữ và quản lý tài sản được ủy thác vì lợi ích của những người thụ hưởng theo những điều khoản về sự tín thác được đề ra trong văn kiện tín thác. (A person appointed, or required by law, to hold and manage property in trust for the benefit of the beneficiaries under the terms of trust stated in the trust deed).
Executor (người thi hành di chúc): Người được chỉ định bởi người để lại di chúc nhằm mục đích thực hiện các điều khoản của di chúc. (A person appointed by a testator for the purpose of carrying out the provisions of the will).
Beneficiary (người hưởng dụng, người thụ hưởng di sản): Người được quyền nhận những lợi ích trong một tài sản, di chúc, hoặc hợp đồng bảo hiểm. (A person who is entitle to receive benefits in a property, will, or insurance policy).
Sau khi qua đời, nếu một người có để lại di chúc, thì di chúc cũng không thể vì thế mà tự động có hiệu lực được. Muốn thực hiện việc chia tài sản thì thân nhân của người quá cố phải làm xong thủ tục để xin “chứng thư xác nhận tính cách hợp lệ của di chúc” (probate).
Thủ tục để xin “chứng thư xác nhận tính cách hợp lệ của di chúc”là công việc của luật sư. Vì phạm vi hạn hẹp của mục LPPT nên cá nhân tôi không thể giải thích chi tiết về cách thức tiến hành để xin chứng thư này lên đây được. Hy vọng là sẽ có một dịp khác thuận tiện hơn.
Thẩm quyền của trustee và executor đã được đề cập đến trong vụ Riddle v. Riddle (1952) 85 CLR 202. Trong vụ đó, Thẩm Phán Kitto đã tuyên bố rằng: Hậu quả của việc trao cho “tín thác viên” quyền đầu tư cổ phiếu là nếu có sự thua lỗ xảy ra đối với tiền bạc hoặc tài sản được ủy thác cho “tín thác viên” trong việc đầu tư đó, thì “tín thác viên” không có trách nhiệm phải chứng minh sự cẩn trọng trong việc đầu tư đó.
Những “người thụ hưởng” (beneficiary) muốn cáo buộc “tín thác viên” thiếu cẩn trọng trong việc đầu tư đó thì phải đưa ra bằng chứng để chứng minh.
Việc trao cho “tín thác viên” quyền đầu tư cổ phiếu đó, tự nó đã trao cho “tín thác viên” quyền hạn tự kiểm soát cho chính mình trong việc đầu tư đó.
Liên hệ đến phương cách mà trong đó quỹ tín thác được đầu tư thì “tín thác viên” chỉ bị chi phối bởi “tiêu chuẩn về sự cẩn trọng” (the standard of care) mà một người bình thường trong vị thế của “tín thác viên” cần phải lưu tâm khi quyết định đầu tư.
Vì thế, “tín thác viên,” trong trường hợp mua cổ phiếu, có trách nhiệm phải quan sát thị trường và sau đó phải thay đổi quyết định đầu tư của mình tùy theo đó.
Có những trường hợp di chúc quy định rằng “tín thác viên” có quyền đầu tư tự do, như chính bản thân của đương sự là người có quyền thừa hưởng di sản, gồm việc đầu tư trong các “tài sản không sản sinh ra lợi tức” (non-income-producing assets) chẳng hạn như các tài sản dùng để cư ngụ hoặc xử dụng bởi người thừa hưởng di sản.
Tuy nhiên, trong Di Chúc của Sherriff (in the Will of Sherriff [1971] 2NSWLR 438). Trong vụ đó, tòa đã đưa ra phán quyết rằng sự tậu mãi tài sản không nhằm vào mục đích sản sinh ra lợi tức thì không thể được xem như là một hành động đầu tư được.
Nếu người để lại di chúc muốn “người thi hành di chúc” cung cấp nơi ăn chốn ở khỏi phải trả tiền, hoặc cho những “người thụ hưởng” (beneficiary) mượn tiền mà khỏi phải trả tiền lời, thì khi lập di chúc người để lại di chúc nên ghi điều này vào trong di chúc của mình.
Dựa vào luật pháp cũng như các phán quyết vừa trưng dẫn, ông có thể thấy được rằng, nếu ông được chỉ định làm “tín thác viên” hoặc “người thi hành di chúc” thì ông có toàn quyền thi hành những điều khoản được quy định trong di chúc.
Nếu những quyền hạn trao cho ông có tính cách tổng quát thì ông có thể thi hành di chúc dựa theo sự quy định thẩm quyền của “tín thác viên” trong “Đạo Luật quy định về thẩm quyền và nhiệm vụ của Tín Thác Viên” (Trustees Act).
Khi thi hành di chúc, nếu ông xử dụng tiền bạc để đầu tư như ông đang xử dụng những đồng tiền do chính mồ hôi và nước mắt của ông làm ra, thì dù được ủy thác quyền hạn trực tiếp trong di chúc hay dựa vào sự quy định của luật pháp, ông vẫn cảm thấy thanh thản hơn nếu lỡ sự đầu tư của ông không mang lại những thành quả như ông mong đợi.
Nếu ông không thông hiểu về thị trường chứng khoán thì ông không nên đầu tư vào thị trường chứng khoán.
Tôi đề nghị trước khi quyết định đầu tư ông nên tìm gặp các chuyên viên hoặc các cố vấn về đầu tư để được cố vấn tường tận hơn.
Nếu ông còn thắc mắc xin cứ gọi điện thoại cho chúng tôi để được giải đáp.
Gửi ý kiến của bạn