Một cách tổng quát, thế giới sử từng chứng kiến ba hình thái cách mạng tiêu biểu. Thứ nhứt, cuộc Cách mạng Độc lập của 13 thuộc địa Anh tại Mỹ châu, chống ách thực dân Đế quốc. Thứ hai, Cách mạng Dân chủ, người dân Pháp giành quyền làm chủ đất nước từ tay nhà vua. Thứ ba, Cách mạng vô sản của Nga, Đảng CS giành độc quyền toàn trị đất nước. Cả ba cuộc cách mạng đều là cách mạng bạo lực, có máu đổ thịt rơi, mịt mờ gươm đao, lửa đạn.
Cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21, xuất hiện một loại hình cách mạng mới. Cuộc cách mạng khác này mang tính chất một cuộc nổi dậy nhiều ngày nhưng không đổ máu của quần chúng nhân dân, khiến hệ thống công quyền vỡ ra từng mảng. Các bộ phận công quyền tách ra trở về với nhân dân. Nhà độc tài hay đảng độc tài vì thế bị cô lập, phải rút lui hay đào tỵ. Minh họa cho nhận định này ở một mức độ là ø các cuộc cách mạng làm sụp đổ cả Đế quốc Liên xô và các chư hầu CS ở Đông Aâu. Nhưng bằng cớ rõ nhứt phải là ba cuộc cách mạng ở Nam dương, Nam Tư, xảy ra cách đây không lâu, và cuộc cách mạng ở Phi luật tân hiện thời.
Các cuộc cách mạng ấy xảy ra ở nhiều châu, nhiều dân tộc, nhiều văn hóa, với nhiều lý do khác nhau, nhưng có chung một số đặc điểm. Đặc điểm thứ nhứt là nhân dân nổi dậy. Nổi dậy bằng biểu tình, tập hợp phản đối trong vòng bất bạo động. Biểu tình bắt đầu với một thành phần xã hội (ly khai, sinh viên, sắc tộc), tại một điểm (thường là thủ đô) rồi dần dần lan rộng ra nhiều tầng lớp xã hội và nhiều thành phố.
Đặc điểm thứ hai là bất bạo động. Cuộc đấu tranh ban đầu được gói gọn trong đòi hỏi, yêu sách, kiến nghị trong vòng luật pháp. Nhưng nội dung các đòi hỏi nặng tính cách mạng, tức đòi thay cũ đổi mới tận gốc những điều nhà nước không thể nhương bộ nếu không muốn bị lật đổ và đổi cả cơ chế công quyền. Thí dụ như bỏ quyền thống trị của Đảng CS, yêu cầu Tổng thống Suharto từ chức, Chủ tịch Milosevic ra đi, và Tổng thống Estrada bị điều tra truy tố.
Mục đích đấu tranh thì gọn. Nhưng cuộc đấu tranh lại trường kỳ và xa luân chiến. Nhịp độ và mức độ ngày càng tăng. Đương nhiên nhà cầm quyền phải đàn áp. Quần chúng chịu đựng, chịu đựng dài hơi nữa là khác. Bắt bớ, giam cầm, đánh đập do nhà cầm quyền gây ra cho người biểu tình không thể tránh. Nhưng hành động đàn áp này chỉ gây phản tác dụng, tai hại cho nhà cầm quyền.
Đặc diểm thứ ba là nhà độc tài, đảng độc tài lần lần bị cô lập. Hẵn nhiên hố ngăn cách giữa người thống trị và bị trị ngày càng sâu rộng, tỷ lệ thuận với mức độ và nhịp độ của các cuộc biểu tình. Nhưng sự cô lập tai hại và tử vong nhứt phải là sự cô lập của nhà độc tài với các các bộ phận công quyền cấu thành chế độ. Công an cảnh sát dè dặt trong việc thi hành nhiệm vụ an ninh trật tự, sợ hành động đàn áp theo lịnh nhà độc sẽ di hại tới cá nhân và tập thể. Tâm lý này cũng gia tăng theo thời gian. Lương tâm xốn xan khi đàn áp biểu tình. Trong đó có thể có thân bằng quyến thuộc của những người nhận lịnh đàn áp. Những điều người biểu tình đang đòi hỏi có khi thâm tâm người đàn áp cũng thấy có lý. Nhà độc tài hay đảng độc tài chỉ có thể mua chuộc thiểu số cấp chỉ huy, chớ không thể làm được đối với đa số cấp dưới.
Khi lực lượng bán quân sự (công an, cảnh sát, mật vu) không đủ sức, bất cứ chánh quyền nào cũng phải dùng quân đội. Các tướng chủ chốt có thể thân tín với nhà độc tài hay đảng độc tài, còn bộ tham mưu, các đơn vị trưởng thường phải nghĩ đến tương lai binh nghiệp của mình. Và nhất là xuất thân từ nhân dân, người quân nhân dễ cảm thông với nỗi niềm quần chúng, không xem người biểu tình là kẻ địch ở chiến trường. Đại đa số quân đội các nước, trong cảnh dầu sôi lửa bỏng cách mạng nhân dân, tỏ ra rất dè dặt, sau cùng ngả về phía nhân dân nổi dậy bằng đảo chánh độc tài hay viện lẽ trung lập không làm chánh trị để tránh né đàn áp.
Bao lâu lực lượng an ninh, quân sự tỏ ra nao núng đàn áp biểu tình thì các cơ quan hiến định, tư pháp, lập pháp sẽ tách rời người hay đảng cầm quyền độc tài như đã thấy ở Nam dương, Nam tư, và Phi luật tân vừa qua.
Đặc điểm chót là tổng nổi dậy. Các thành phần trong xã hội tham gia. Quần chúng lớp lớp bị trị bao vây và xiết mạnh người thống trị. Aùp lực căng cao độ. Các lực lượng an ninh, quân sư lẽ ra phải chống đỡ công quyền lại trung lập hay đứng một bên, chỉ cố giữ ổn định xã hội, chống cướp phá, hôi của. Các cơ quan hiến định cùng các lãnh tụ đấu tranh, đoàn thể chánh trị cố gắng dàn xếp, tránh sự bùng nổ của xã hội. Giải pháp thường là sự ra đi trong trật tự của nhà độc tài và sự an bày số phận cho đảng độc tài.
Cuộc cách mạng nhân dân lật đổ TT Estrda ở Phi, là một mẩu mực rõ nét gần nhứt của loại hình cách mạng mới. Cuộc biểu tình đòi hạ bệ TT Estrda mực độ, nhịp độ tăng theo thời gian. Đức Hồng y Công giáo La mã tại Phi lên tiếng tăng cường sức mạnh và số lương người biểu tình. Đại đa số nhân dân Phi theo Công giáo La mã. Tất cả thẩm phán điều tra tội tham nhũng của tổng thống từ chức sau khi Thượng viện nghị quyết không cho kiểm tra tài khoản của Estrada ở ngân hàng. Cuộc tổng nổi dậy bắt đầu ngay sau đó kết liễu sự nghiệp chánh trị của Oâng Estrada.
Sử học và chánh trị học chỉ rõ, cách mạng không miển trừ cho bất cứ loại chế độ nào, quân chủ, dân chủ, độc tài quân phiệt, cá nhân hay đảng phái . Vì thế CSVN cũng không thể nằm ngoài phạm vi chi phối của cách mạng, không thể được miễn nhiễm cách mạng được. Các cuộc đấu tranh vì tự do tôn giáo sẽ không ngừng ở phạm vi tôn giáo. Điều 4 Hiến Pháp VNCS áp đặt nền cai trị độc tài toàn diện cho Đảng, còn thì không có một thứ tự do nào có thể có được. Đấu tranh tôn giáo chỉ là sự khởi đầu của một tiến trình cách mạng nhân dân, đấu tranh cho quyền tự do dân tộc. Cuộc đấu tranh diễn qua bước bất bạo động, rồi có thể chuyển biến qua bất hợp tác, và bất phục tùng dân sự. Cuộc chiến đã phát triễn sâu lẫn rộng, thành phong trào liên kết giữa các tôn giáo và theo chiều dài của đất nước. Đà phát triễn ấy còn rất mạnh, đang tiến dần đến một cuộc cuộc tổng nổi dậy của nhân dân làm công quyền rã ra từng mảnh, như một cuộc cách mạng không bạo lực mới của đầu thế kỷ 21 chăng"
Gửi ý kiến của bạn