Hai mươi tám năm đã trôi qua kể từ ngày Cộng sản chiếm miền Nam Việt Nam bằng vũ lực. Nhắc lại quá khứ để rút tỉa những bài học kinh nghiệm là điều nên làm, nhưng ngày nay thời thế đã đổi thay, cũng cần phải tính đến những chuyện sắp tới không phải chỉ riêng cho miền Nam mà cho toàn thể lãnh thổ Việt Nam khi đất nước thoát khỏi ách độc tài đảng trị. Chế độ Cộng sản không thể tồn tại mãi mãi, trước sau nó cũng phải sụp đổ. Nhưng khi nào nó sụp đổ và sụp đổ cách nào, đó là hai câu hỏi day dứt nhất. Năm 1995, kỷ niệm đúng 20 năm ngày 30-4, nhiều vị cao niên sống trong cộng đồng người Việt tị nạn ở Mỹ nêu câu hỏi "khi nào"", để rồi lắc đầu thở dài. Các cụ nghĩ rằng khó có hy vọng nhìn thấy đất nước thoát khỏi nạn cộng sản trước khi nhắm mắt lìa đời.
Tình hình ngày nay đã khác, ở trong nước cũng như ở ngoài nước, nhất là những diễn biến quốc tế trong mấy tháng gần đây khiến người ta có thể nhận định ngày đó sẽ đến sớm hơn dự tưởng. Nhưng bằng cách nào" Ở trong nước, tình hình xã hội đã thay đổi nhiều so với thời kỳ chiến tranh mới chấm dứt. Khi bắt buộc phải chấp nhận kinh tế thị trường thay thế cho kinh tế xã hội chủ nghĩa để cứu nguy kinh tế quốc dân và cũng cứu nguy luôn chế độ, những người Cộng sản Việt Nam đã bị thời thế dồn đến thế bắt buộc phải thay đổi đến gốc rễ tư tưởng giáo điều của họ. Họ đã hiểu nguyên lý thà tự mình diễn biến hòa bình còn hơn để người ngoài làm giùm họ. Tuy nhiên trong thế "chẳng đặng đừng" đó, một số những người bảo thủ nắm uy quyền tuyệt đối trong bộ máy đảng vẫn ôm hy vọng sẽ thực hiện được sự thay đổi từ từ, kéo dài được bao lâu càng hay để bảo đảm một lối thoát êm đẹp, quyền lợi và hậu vận của họ và thân thuộc. Tuy nhiên hy vọng kéo dài ngày càng mờ dần vì một số yếu tố khách quan.
Trước hết những biến cố dồn dập trên thế giới không chờ đợi họ. Thứ hai, xã hội Việt Nam sau khi mở cửa với thế giới bên ngoài, cũng đang diễn biến theo một nhịp độ mau lẹ hơn trước, nhất là những đòi hỏi công khai của những người ngang nhiên phản kháng chế độ với sự tiếp tay của đa số thầm lặng đã thúc đẩy ban lãnh đạo phải cải thiện chế độ mau hơn trước. Và sau hết nhưng không kém phần quan trọng là những phong trào tranh đấu của những đoàn thể người Việt ở hải ngoại đã vạch trần những thủ đoạn dàn áp, bưng bít, chần chờ để vá víu chế độ đang rạn nứt. Những áp lực đó đang thúc đẩy chế dộ cộng sản Việt Nam đi vào tiến trình "nội nổ". Để cứu vãn nguy cơ này, trong những tháng gần đây, chế độ Hà Nội đã có một vài sự cởi mở để làm giảm bớt áp lực, nhưng càng hé ra cho bớt ngột ngạt thì những luồng gió từ trong và ngoài càng thúc vào để làm tiến trình nội nổ gia tốc.
Ngoài sự nội nổ, người ta cũng có thể tính đến một sự "ngoại nổ" lật nhào chế độ. Việc Mỹ dùng vũ lực lật đổ chế độ độc tài Saddam Hussein khiến người ta nghĩ đến chuyện này. Nhưng trong khi Mỹ còn phải nương tay với vấn đề vũ khí nguyên tử của chế độ Cộng sản Bắc Hàn, việc dùng vũ lực từ bên ngoài lật đổ chế độ Cộng sản Việt Nam không thể nào xẩy ra, ít ra trong lúc này. Vả lại trong các mối liên hệ quốc tế, có một sự thật phủ phàng cần phải nhìn cho rõ: không nước nào đem quân đi "giải phóng" giùm một dân tộc khác nếu không có lợi riêng và cái lợi này phải lớn hơn những tổn phí chiến tranh và những hậu quả của chuyện binh đao. Vậy chế độ Cộng sản Việt Nam sẽ bị lật đổ theo cách nào" Tôi thiết nghĩ việc này nên để cho dân tộc Việt Nam quyết định, chớ không phải để người ngoài quyết định. Nhưng nếu đem câu hỏi "cách nào" đặt ra cho người Việt Nam ở trong và ngoài nước sự trả lời thật phức tạp. Ở trong nước có nhiều thế hệ tuổi tác khác nhau, lối suy tư cũng không đồng nhất. Từ giới trẻ đến giới già, tư tưởng có thể khác nhau, và ngay trong giới già cũng có ý kiến khác biệt tùy ở nơi họ đã sống ở miền Bắc hay miền Nam. Vào lúc chiến tranh kết thúc, chỉ có một thiểu số ở miền Nam chạy được ra nước ngoài còn đa số lớn kẹt lại ở trong nước. Ý kiến của đa số này quan trọng hơn.
Lật đổ cách nào, đổ máu hay không đổ máu, nhanh hay chậm" Những ý kiến có thể khác nhau, nhưng tôi tin phản ứng của người Việt Nam vẫn có một mẫu số chung làm nền tảng để tìm lời giải đáp. Mẫu số đó là tinh thần dân tộc do tổ tiên nòi giống để lại từ ngàn xưa. Nếu đa số người dân trong nước ngày nay chán ghét chiến tranh và không thích có đổ máu thêm nữa, đó cũng là điều dễ hiểu. Nhưng đó không phải là tinh thần chủ bại, mà là tình nghĩa đồng bào, máu chảy ruột mềm, và chính tinh thần này đã tạo ra ý chí quật cường chống ngoại xâm. Trong lịch sử, dân Việt Nam đã bao lần đứng lên hy sinh xương máu đánh đuổi quân ngoại xâm, từ thời một ngàn năm lệ thuộc Tầu cho đến 100 năm bị Pháp đô hộ. Chính những người Cộng sản đã lợi dụng tinh thần dân tộc đó để chiến thắng. Bởi vậy những sức mạnh vũ lực bên ngoài không nên để cho Cộng sản lợi dụng tinh thần đó một lần nữa.
Cũng vì tinh thần dân tộc đó, người dân Việt Nam xưa cũng như nay đều không thể chấp nhập một chế độ hay những người lãnh đạo được thả dù xuống hoặc do chiến hạm ngoại quốc đem đến đặt lên đầu họ. Đây không phải là tinh thần bài ngoại mà do kinh nghiệm của quá khứ. Người Việt Nam sẵn sàng chấp nhận những luồng gió trong lành của những nền văn hóa tốt đẹp từ thế giới bên ngoài đem lại, để rồi cải biến cho phù hợp với những nét đặc thù của dân tộc tính. Nhưng họ chống lại những thứ ngoại lai phản lại dân tộc. Chế độ Cộng sản là chế độ ngoại lai tệ hại nhất, bây giờ nó chỉ còn chờ ngày phế thải. Dân tộc Việt Nam thời xưa đã không chấp nhận những quan Thái thú, ngày nay họ cũng không thể nào chấp nhận những loại "Thái thú" được nấu lại và đúc khuôn mới bằng máy móc hiện đại.
Tình hình ngày nay đã khác, ở trong nước cũng như ở ngoài nước, nhất là những diễn biến quốc tế trong mấy tháng gần đây khiến người ta có thể nhận định ngày đó sẽ đến sớm hơn dự tưởng. Nhưng bằng cách nào" Ở trong nước, tình hình xã hội đã thay đổi nhiều so với thời kỳ chiến tranh mới chấm dứt. Khi bắt buộc phải chấp nhận kinh tế thị trường thay thế cho kinh tế xã hội chủ nghĩa để cứu nguy kinh tế quốc dân và cũng cứu nguy luôn chế độ, những người Cộng sản Việt Nam đã bị thời thế dồn đến thế bắt buộc phải thay đổi đến gốc rễ tư tưởng giáo điều của họ. Họ đã hiểu nguyên lý thà tự mình diễn biến hòa bình còn hơn để người ngoài làm giùm họ. Tuy nhiên trong thế "chẳng đặng đừng" đó, một số những người bảo thủ nắm uy quyền tuyệt đối trong bộ máy đảng vẫn ôm hy vọng sẽ thực hiện được sự thay đổi từ từ, kéo dài được bao lâu càng hay để bảo đảm một lối thoát êm đẹp, quyền lợi và hậu vận của họ và thân thuộc. Tuy nhiên hy vọng kéo dài ngày càng mờ dần vì một số yếu tố khách quan.
Trước hết những biến cố dồn dập trên thế giới không chờ đợi họ. Thứ hai, xã hội Việt Nam sau khi mở cửa với thế giới bên ngoài, cũng đang diễn biến theo một nhịp độ mau lẹ hơn trước, nhất là những đòi hỏi công khai của những người ngang nhiên phản kháng chế độ với sự tiếp tay của đa số thầm lặng đã thúc đẩy ban lãnh đạo phải cải thiện chế độ mau hơn trước. Và sau hết nhưng không kém phần quan trọng là những phong trào tranh đấu của những đoàn thể người Việt ở hải ngoại đã vạch trần những thủ đoạn dàn áp, bưng bít, chần chờ để vá víu chế độ đang rạn nứt. Những áp lực đó đang thúc đẩy chế dộ cộng sản Việt Nam đi vào tiến trình "nội nổ". Để cứu vãn nguy cơ này, trong những tháng gần đây, chế độ Hà Nội đã có một vài sự cởi mở để làm giảm bớt áp lực, nhưng càng hé ra cho bớt ngột ngạt thì những luồng gió từ trong và ngoài càng thúc vào để làm tiến trình nội nổ gia tốc.
Ngoài sự nội nổ, người ta cũng có thể tính đến một sự "ngoại nổ" lật nhào chế độ. Việc Mỹ dùng vũ lực lật đổ chế độ độc tài Saddam Hussein khiến người ta nghĩ đến chuyện này. Nhưng trong khi Mỹ còn phải nương tay với vấn đề vũ khí nguyên tử của chế độ Cộng sản Bắc Hàn, việc dùng vũ lực từ bên ngoài lật đổ chế độ Cộng sản Việt Nam không thể nào xẩy ra, ít ra trong lúc này. Vả lại trong các mối liên hệ quốc tế, có một sự thật phủ phàng cần phải nhìn cho rõ: không nước nào đem quân đi "giải phóng" giùm một dân tộc khác nếu không có lợi riêng và cái lợi này phải lớn hơn những tổn phí chiến tranh và những hậu quả của chuyện binh đao. Vậy chế độ Cộng sản Việt Nam sẽ bị lật đổ theo cách nào" Tôi thiết nghĩ việc này nên để cho dân tộc Việt Nam quyết định, chớ không phải để người ngoài quyết định. Nhưng nếu đem câu hỏi "cách nào" đặt ra cho người Việt Nam ở trong và ngoài nước sự trả lời thật phức tạp. Ở trong nước có nhiều thế hệ tuổi tác khác nhau, lối suy tư cũng không đồng nhất. Từ giới trẻ đến giới già, tư tưởng có thể khác nhau, và ngay trong giới già cũng có ý kiến khác biệt tùy ở nơi họ đã sống ở miền Bắc hay miền Nam. Vào lúc chiến tranh kết thúc, chỉ có một thiểu số ở miền Nam chạy được ra nước ngoài còn đa số lớn kẹt lại ở trong nước. Ý kiến của đa số này quan trọng hơn.
Lật đổ cách nào, đổ máu hay không đổ máu, nhanh hay chậm" Những ý kiến có thể khác nhau, nhưng tôi tin phản ứng của người Việt Nam vẫn có một mẫu số chung làm nền tảng để tìm lời giải đáp. Mẫu số đó là tinh thần dân tộc do tổ tiên nòi giống để lại từ ngàn xưa. Nếu đa số người dân trong nước ngày nay chán ghét chiến tranh và không thích có đổ máu thêm nữa, đó cũng là điều dễ hiểu. Nhưng đó không phải là tinh thần chủ bại, mà là tình nghĩa đồng bào, máu chảy ruột mềm, và chính tinh thần này đã tạo ra ý chí quật cường chống ngoại xâm. Trong lịch sử, dân Việt Nam đã bao lần đứng lên hy sinh xương máu đánh đuổi quân ngoại xâm, từ thời một ngàn năm lệ thuộc Tầu cho đến 100 năm bị Pháp đô hộ. Chính những người Cộng sản đã lợi dụng tinh thần dân tộc đó để chiến thắng. Bởi vậy những sức mạnh vũ lực bên ngoài không nên để cho Cộng sản lợi dụng tinh thần đó một lần nữa.
Cũng vì tinh thần dân tộc đó, người dân Việt Nam xưa cũng như nay đều không thể chấp nhập một chế độ hay những người lãnh đạo được thả dù xuống hoặc do chiến hạm ngoại quốc đem đến đặt lên đầu họ. Đây không phải là tinh thần bài ngoại mà do kinh nghiệm của quá khứ. Người Việt Nam sẵn sàng chấp nhận những luồng gió trong lành của những nền văn hóa tốt đẹp từ thế giới bên ngoài đem lại, để rồi cải biến cho phù hợp với những nét đặc thù của dân tộc tính. Nhưng họ chống lại những thứ ngoại lai phản lại dân tộc. Chế độ Cộng sản là chế độ ngoại lai tệ hại nhất, bây giờ nó chỉ còn chờ ngày phế thải. Dân tộc Việt Nam thời xưa đã không chấp nhận những quan Thái thú, ngày nay họ cũng không thể nào chấp nhận những loại "Thái thú" được nấu lại và đúc khuôn mới bằng máy móc hiện đại.
Gửi ý kiến của bạn