Việt Nam vẫn còn nhiều lễ hội độc đáo mà dân các thành phố lớn - như Sài Gòn và Hà Nội - hiếm có cơ hội chứng kiến. Không cần nói gì tới các lễ hội của các sắc tộc thiểu số ở Tây Nguyên hay miền núi phía Bắc, ngay như một số làng chỉ cách Hà Nội vài mươi cây số cũng còn giữ một số lễ hội... có khi đã trải qua một truyền thống nhiều ngàn năm từ thời vua Hùng Vương. Thí dụ như Lễ Hội Chạy Lợn, theo nhà báo Vũ Tín của Hà Nội kể như sau.
Hồi còn nhỏ bọn trẻ chúng tôi vẫn gọi đình Thượng làng Duyên Yết là "đình chạy lợn", vì năm nào chúng tôi cũng được xem "chạy lợn" ở đây vào dịp sau Tết. Lễ hội "chạy lợn" đã gây cho bọn trẻ chúng tôi một ấn tượng không thể phai mờ. Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, đau thương tang tóc bao phủ xóm làng, từ đó không còn hội làng nữa, và lễ hội "chạy lợn" cũng đi vào dĩ vãng.
Những tưởng lễ hội "chạy lợn" của làng tôi đã vĩnh viễn mất đi. Nhưng may thay, nó lại được khôi phục trở lại. Ấy là vào dịp tháng 4-1999, làng tôi tổ chức đón nhận bằng di tích lịch sử văn hóa. Lớp người quê tôi từ 50 tuổi trở xuống không ai biết "chạy lợn" là thế nào.
Sự tích về lễ hội "chạy lợn" như sau:
Đời vua Hùng Vương thứ 18, có một vị tướng tên húy là Nguyễn Hiển, hành quân qua đây để đánh đuổi giặc. Các vị bô lão trong làng đã xin được làm cỗ khao quân. Vị tướng bằng lòng, nhưng yêu cầu phải làm sao thật nhanh để binh sĩ kịp hành quân đuổi giặc.
Từ đó hằng năm, cứ vào ngày 7-1 âm lịch, dân làng lại mở hội "chạy lợn" để nhớ về một truyền thống có ý nghĩa về tình quân dân cá nước thời xa xưa.
Từ "chạy" ở đây có ý nghĩa là "thật nhanh" - mổ lợn thật nhanh, làm cỗ thật nhanh, chớp thời cơ để thắng giặc.
Con lợn được đem ra lễ hội "chạy lợn" phải được nuôi hết sức cẩn thận. Trước lễ hội 10 ngày, chỉ cho ăn cháo gạo nếp, tắm rửa bằng nước lá thơm sạch sẽ mỗi ngày. Khi rước lợn vào đình, phải đặt lợn nằm trong một cũi sơn đỏ.
Mỗi xóm cử ra 2 thanh niên cường tráng chưa vợ, đầu đội khăn đỏ, quấn thắt lưng đỏ. Cả 10 tráng đinh tề chỉnh, khiêng 5 con lợn của 5 xóm, quỳ trước sân đình chờ lệnh.
Khi tiếng trống lệnh nổi lên, lập tức khiêng lợn về vị trí giết mổ. Ở đây đã chờ sẵn, những trai trẻ được phân công mổ lợn làm cỗ. Người cầm con dao to và dài tì vào cổ con lợn, người khác cầm chiếc vồ to giáng mạnh vào sống dao, chiếc thủ lợn văng ra, 2 người cầm chiếc thủ lợn nhúng vào nồi nước sôi, và làm sạch lông chiếc thủ lợn trong nháy mắt, rồi lại tiếp tục luộc thủ lợn vào nồi nước đang sôi sùng sục.
Những người trong đội "chạy lợn" của mỗi xóm, được phân công mỗi người lấy một thứ trong con lợn, và làm chín để bày vào mâm cỗ.
Mâm cỗ khi mang lên tế thần phải có đủ 10 thứ theo quy định của lễ hội như: thủ, vĩ, tim, gan, bầu dục, thịt vai, thịt mông, v.v. và nhất thiết phải có lá mỡ chài, phủ lên thủ lợn để trang trí cho mâm cỗ thật đẹp thì mới được chấm điểm.
Các cụ giám khảo còn ra khám con lợn sau khi giết mổ, con lợn nào bị thủng ruột và mổ phanh ra để lấy lục phủ ngũ tạng, đều không được chấm điểm. Các vết mổ trên mình lợn phải nhỏ gọn, kín đáo, trông như con lợn còn nguyên vẹn, trừ cái đầu bị chặt để mang đi tế thần.
Từ lúc con lợn được khiêng về vị trí giết mổ, đến khi mâm cỗ tượng trưng được làm xong và đem vào tế thần chỉ hết từ 2 đến 3 phút, chậm hơn sẽ không được chấm điểm. Thật là một kỷ lục hiếm thấy!
Sôi động nhất là khi rước cỗ vào tế thần, trống thúc liên hồi, tiếng hò reo và những động tác khua dao, múa gậy của những người "chạy lợn" chạy theo mâm cỗ, của những người xem hội hò la cổ vũ các trai làng khiêng cỗ vào tế thần, làm vang động cả sân đình.
Lễ hội "chạy lợn" đã để lại cho người xem một ấn tượng khó quên.
Ngoài lễ hội đâm trâu ở Tây Nguyên, lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn, Hải Phòng, lễ hội "chạy lợn" ở Duyên Yết, Hồng Thái (Phú Xuyên, Hà Tây) cũng là một lễ hội mang nét sinh hoạt văn hóa độc đáo, mang nặng nghĩa tình quân dân cá nước xưa nay.
Hồi còn nhỏ bọn trẻ chúng tôi vẫn gọi đình Thượng làng Duyên Yết là "đình chạy lợn", vì năm nào chúng tôi cũng được xem "chạy lợn" ở đây vào dịp sau Tết. Lễ hội "chạy lợn" đã gây cho bọn trẻ chúng tôi một ấn tượng không thể phai mờ. Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, đau thương tang tóc bao phủ xóm làng, từ đó không còn hội làng nữa, và lễ hội "chạy lợn" cũng đi vào dĩ vãng.
Những tưởng lễ hội "chạy lợn" của làng tôi đã vĩnh viễn mất đi. Nhưng may thay, nó lại được khôi phục trở lại. Ấy là vào dịp tháng 4-1999, làng tôi tổ chức đón nhận bằng di tích lịch sử văn hóa. Lớp người quê tôi từ 50 tuổi trở xuống không ai biết "chạy lợn" là thế nào.
Sự tích về lễ hội "chạy lợn" như sau:
Đời vua Hùng Vương thứ 18, có một vị tướng tên húy là Nguyễn Hiển, hành quân qua đây để đánh đuổi giặc. Các vị bô lão trong làng đã xin được làm cỗ khao quân. Vị tướng bằng lòng, nhưng yêu cầu phải làm sao thật nhanh để binh sĩ kịp hành quân đuổi giặc.
Từ đó hằng năm, cứ vào ngày 7-1 âm lịch, dân làng lại mở hội "chạy lợn" để nhớ về một truyền thống có ý nghĩa về tình quân dân cá nước thời xa xưa.
Từ "chạy" ở đây có ý nghĩa là "thật nhanh" - mổ lợn thật nhanh, làm cỗ thật nhanh, chớp thời cơ để thắng giặc.
Con lợn được đem ra lễ hội "chạy lợn" phải được nuôi hết sức cẩn thận. Trước lễ hội 10 ngày, chỉ cho ăn cháo gạo nếp, tắm rửa bằng nước lá thơm sạch sẽ mỗi ngày. Khi rước lợn vào đình, phải đặt lợn nằm trong một cũi sơn đỏ.
Mỗi xóm cử ra 2 thanh niên cường tráng chưa vợ, đầu đội khăn đỏ, quấn thắt lưng đỏ. Cả 10 tráng đinh tề chỉnh, khiêng 5 con lợn của 5 xóm, quỳ trước sân đình chờ lệnh.
Khi tiếng trống lệnh nổi lên, lập tức khiêng lợn về vị trí giết mổ. Ở đây đã chờ sẵn, những trai trẻ được phân công mổ lợn làm cỗ. Người cầm con dao to và dài tì vào cổ con lợn, người khác cầm chiếc vồ to giáng mạnh vào sống dao, chiếc thủ lợn văng ra, 2 người cầm chiếc thủ lợn nhúng vào nồi nước sôi, và làm sạch lông chiếc thủ lợn trong nháy mắt, rồi lại tiếp tục luộc thủ lợn vào nồi nước đang sôi sùng sục.
Những người trong đội "chạy lợn" của mỗi xóm, được phân công mỗi người lấy một thứ trong con lợn, và làm chín để bày vào mâm cỗ.
Mâm cỗ khi mang lên tế thần phải có đủ 10 thứ theo quy định của lễ hội như: thủ, vĩ, tim, gan, bầu dục, thịt vai, thịt mông, v.v. và nhất thiết phải có lá mỡ chài, phủ lên thủ lợn để trang trí cho mâm cỗ thật đẹp thì mới được chấm điểm.
Các cụ giám khảo còn ra khám con lợn sau khi giết mổ, con lợn nào bị thủng ruột và mổ phanh ra để lấy lục phủ ngũ tạng, đều không được chấm điểm. Các vết mổ trên mình lợn phải nhỏ gọn, kín đáo, trông như con lợn còn nguyên vẹn, trừ cái đầu bị chặt để mang đi tế thần.
Từ lúc con lợn được khiêng về vị trí giết mổ, đến khi mâm cỗ tượng trưng được làm xong và đem vào tế thần chỉ hết từ 2 đến 3 phút, chậm hơn sẽ không được chấm điểm. Thật là một kỷ lục hiếm thấy!
Sôi động nhất là khi rước cỗ vào tế thần, trống thúc liên hồi, tiếng hò reo và những động tác khua dao, múa gậy của những người "chạy lợn" chạy theo mâm cỗ, của những người xem hội hò la cổ vũ các trai làng khiêng cỗ vào tế thần, làm vang động cả sân đình.
Lễ hội "chạy lợn" đã để lại cho người xem một ấn tượng khó quên.
Ngoài lễ hội đâm trâu ở Tây Nguyên, lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn, Hải Phòng, lễ hội "chạy lợn" ở Duyên Yết, Hồng Thái (Phú Xuyên, Hà Tây) cũng là một lễ hội mang nét sinh hoạt văn hóa độc đáo, mang nặng nghĩa tình quân dân cá nước xưa nay.
Gửi ý kiến của bạn