Khi đó, khi anh định viết những gì anh đã sống, đã trải qua, chắc là anh đã đứng tuổi, đã lập gia đình, ngoài mẹ già anh may mắn còn được gần, trong khi chị và em - đứa thứ nhì tử trận, người chị mê phong trào ở lại đất bắc, đứa út ở với bà nội đương đêm bị du kích từ bên kia sông là vùng kháng chiến, lội về làng bắt đem đi, trao cho người bác của anh, với lý do, nó còn quá nhỏ có thể vô tình chỉ chỗ ẩn náu của du kích cho Tây, [ngoài ra còn một lý do khác nữa, nhưng anh chưa tiện viết ra ở đây, có phải không"], ngoài mẹ già, già nua, tật bệnh, khốn khổ vì những bất hạnh, suốt đời chỉ hưởng một vài năm sung sướng, dễ chịu, đó là khi bố anh còn sống, chưa bị người học trò viết thiệp mời thầy đi dự tiệc tất niên nhưng thực sự là mời thầy đi mò tôm, và sau đó, sau cái ngày bố anh rời nhà ra đi, nói là sẽ về liền, bà mẹ anh đã chạy ngược chạy xuôi, lặn rừng leo núi, tới tận vùng thượng du Bắc Việt, tới tận biên giới, xuống tận vùng biển, vùng mỏ, để tìm chồng, vẫn còn nhen nhúm trong lòng một chút hy vọng, rằng người chồng vẫn còn sống, và sẽ trở về, rằng người này người nọ đã từng gặp mặt, nghe tiếng; nơi kia nơi đó đã cưu mang, chứa chấp, hoặc giam giữ, người đàn bà sau khi đã không còn hy vọng lẫn tuyệt vọng, thay vì chạy ngược chạy xuôi để tìm kiếm người chồng chắc là đã chết ngay từ đầu của mọi tai họa, bây giờ chạy ngược chạy xuôi để tìm kiếm tiền nuôi chính mình và mấy đứa con, đứa lớn nhất lên chín lên mười, đứa nhỏ nhất sáu, bẩy tuổi, trong khi mình chưa tới ba mươi, cố gắng chống trả không phải sự già yếu bệnh tật mà là sự trẻ trung, nhan sắc; không phải cái xấu mà là điều tốt (nhan sắc, tuổi trẻ, đời sống, thú vui, sự chiều chuộng, tâng bốc...), cố gắng đừng bước thêm bước nữa, cố gắng nuôi con khôn lớn nên người, hy vọng quãng đời về già sẽ bớt cô đơn, có nơi nương tựa là mấy đứa con, đứa cháu, đứa dâu, đứa rể... nhưng định mệnh tàn khốc vẫn chưa chịu ngừng nghỉ, vẫn để ý theo rõi bà từng bước, người đàn bà tuy yếu đuối nhưng bền bỉ chịu đựng, người đàn bà hồi còn trẻ đã không tha thứ hay chiều chuộng nhan sắc của mình, đã từng khóc chồng, rồi sau đó, khóc cha (ông ngoại của anh bị đấu tố vì tội địa chủ, và sau đó nhẩy xuống sông để trốn tội), khóc hai trong bốn đứa con phải bỏ lại đất bắc; đứa con gái lớn, người chị, tưởng đã đến lúc được nhờ cậy thì bị lôi cuốn vào cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, không là con của bà, mà là con của nhân dân, đã trở thành một dân công tải đạn trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đứa con trai út ở với bà nội bị du kích đương đêm vượt quãng sông Việt Trì, nơi chồng bà bị người học trò buộc đá vào người thả xuống, bắt qua vùng kháng chiến trao cho người bác của anh (đứa em trai út của anh lúc đó bị đau mắt hột, và trong suốt những năm tháng chạy vào nam sau đó, mẹ anh vẫn thường lo lắng, không hiểu ngoài đó thuốc thang ra sao, liệu có hết đau mắt hay bị mù...); còn hai đứa theo bà vào nam, sau khi vất vả làm đủ nghề, những ngày vừa rời bến tầu Sài Gòn, từ bán bán bánh cuốn, bún riêu cua, cháo gà, cháo vịt lòng vòng trong mấy con hẻm Chợ Vườn Chuối, tới làm chân giữ trẻ em cho những gia đình quen, hoặc không quen, tới lúc cả hai đã lớn, thằng anh đã đi làm, đã có thể nuôi được em được mẹ, tới lúc đó, bà lại phải đổ thật nhiều nước mắt, để khóc đứa con tử trận.
Khi anh định viết về những chuyện đó, chắc là anh đã lập gia đình (đã yêu thương một người đàn bà), đã có con (đã có hai con, một trai, một gái), và như một kinh nghiệm của một nhà văn nước ngoài mà anh đã đọc và ngưỡng mộ (W. Faulkner), khi đó, bởi vì anh cần chút tiền để trả chút nợ, hay để mua cho vợ anh một chiếc áo mới nhân dịp sinh nhật, mua đôi giầy, đôi dép cho hai đứa nhỏ, chỉ vì chút nhu cầu tầm thường đó mà anh viết. Tất cả những nhu cầu nhỏ mọn chẳng liên quan gì đến văn chương, và cũng chẳng liên quan gì tới những nỗi đau khổ mà gia đình anh đã trải qua đó, đã xui khiến anh viết, đã cho anh thêm chút can đảm để bỏ một cuộc vui, một cuộc tụ tập với đám bạn bè nơi nhà hàng, quán nước (cái không khí túm năm tụm ba đó lúc nào mà chẳng toát ra một vẻ quyến rũ), đã cho anh thêm một chút sức mạnh để chống lại những giấc ngủ lết bết, chống lại sự lười biếng làm tê liệt mọi dự tính: anh sẽ viết về những gì thật nghiêm trang (những cái gì từa tựa như là là ý nghĩa về đời sống, cái chết, chiến tranh...) chỉ vì những nguyên nhân thật tầm thường giản dị, và đem tập bản thảo đi gạ bán cho một nhà xuất bản.
Sơ Dạ Hương