Cuối tuần qua dân Mỹ tưng bừng đi mua sắm mở đầu cho đợt ăn xài theo lệ cuối năm. Thật chưa bao giờ vui thế! Mà không vui sao được, mức lợi tức của người dân Mỹ đã tăng vọt trong tháng 10, mạnh nhất kể từ hơn 5 năm qua. Nhìn cảnh này và nhân dịp khối ASEAN họp thượng đỉnh tại Manila, tôi bất giác nghĩ đến tình hình kinh tế Việt Nam.
Tôi không định làm một sự so sánh vì nó quá nhàm, chỉ nhấn mạnh đến một vài điểm then chốt trong bối cảnh này. Ở Việt Nam các ông lãnh đạo cộng sản thường hô “xúc tiến đổi mới” và gần đây còn nói đến “hội nhập kinh tế” coi như khẩu hiệu thời thượng. Không cần hỏi xem các ông nói như vậy rồi có làm hay không, hãy nói đến một chuyện các ông đã làm là kinh tế thị trường để thoát ra khỏi sự chết đói của kinh tế xã hội chủ nghĩa. Một cột trụ quan trọng của kinh tế thị trường là “xã hội tiêu thụ”. Kinh tế thị trường đẻ ra xã hội tiêu thụ, và xã hội tiêu thụ thúc đẩy kinh tế thị trường. Đó là một luật tương tác thiết yếu, các ông cộng sản có lẽ đã quên, hay cố ý không muốn nhìn đến.
Vậy xã hội tiêu thụ ở Việt Nam hiện nay như thế nào" Hãy nhìn đến một vài hiện tượng đầy ý nghĩa. Trước hết là sự “giảm phát” của đồng bạc Việt Nam. Khi có nạn lạm phát phi mã, đó là dấu hiệu của một nền kinh tế sắp sụp đổ, cũng giống như một cái vỏ xe hơi quá căng và sắp sửa nổ. Thế nhưng khi có sự giảm phát, đó là hình ảnh một cái vỏ xe xì hơi, dần dần xẹp lép khiến cỗ xe kinh tế phải chết đứng. Một nền kinh tế bị “giảm phát” cũng nguy hiểm như một nền kinh tế bị lạm phát phi mã. Khi giảm phát có nghĩa là giá hàng không tăng, có khi còn xuống, như vậy là hồ hởi cho người dân tha hồ mua sắm. Nhưng kỳ lạ thay, giá hàng rẻ mà không thấy dân Việt Nam mua sắm, trong khi hàng hóa bán ế chất đầy kho, nguyên vật liệu cũng chất đống, có nghĩa là công kỹ nghệ và các nhà máy ngồi chơi không. Vì dân Việt Nam không có tiền chăng" Điều đó chỉ đúng có một phần, nhất là ở những vùng thôn quê nghèo khó, hay vùng núi xa xôi. Nhưng dân thành phố ở Việt Nam có tiền và cũng không nên quên người Việt hải ngoại gửi tiền về giúp thân nhân trong nước mỗi năm có đến hơn một tỷ đô la. Vậy tại sao họ không mua sắm"
Tôi xin nói đến một điểm tâm lý xã hội chung cho mọi nước. Ở đâu người dân không tin ở tương lai kinh tế của đất nước, họ sẽ thủ, giấu tiền đi để phòng thân khi gập cơn khủng hoảng. Họ chỉ ăn xài khi tin chắc ở vận mệnh kinh tế của cả nước. Đó là trường hợp dân Mỹ hiện nay. Ở Việt Nam khi dân không mua sắm, hàng ế ẩm, bán không được nên hàng càng phải bán rẻ, vật giá đi xuống. Nhưng khi vật giá đi xuống lại khổ cho nông dân chiếm 80% dân số. Vì họ sống bằng sản phẩm nông nghiệp nên khi nông sản xuống giá, thu nhập của nông dân cũng teo lại. Nạn nghèo khổ ở nông thôn vốn là cái ngòi nổ, nay nó đã gia tăng độ nóng.
Một hiện tượng khác là sự thâm thủng ngân sách. Vì đây là “bí mật quốc gia” nên không ai rõ thâm thủng thực sự bao nhiêu, chỉ biết số chi nhiều hơn số thu khá nhiều. Bình thường khi một nền kinh tế có lạm phát cao, thâm thủng ngân sách phải lớn. Nhưng đàng này tiền giảm phát mà ngân sách vẫn thâm thủng, tại sao vậy" Đó là vì Việt Nam không phải xã hội tiêu thụ, trong khi đó thu nhập ngân sách nhà nước lại quá yếu, không thu được thuế vì buôn lậu và tham ô, xuất cảng xuống cấp thê thảm vì cạnh tranh quốc tế làm giá hàng trên thị trường thế giới hạ. Bởi vậy chính phủ không tăng thu được nên chỉ còn cách giảm chi để cố giữ cho thâm thủng ngân sách khỏi lớn thêm. Nhưng giảm chi lại làm mồi cho kinh tế xuống dốc thêm nữa.
Chúng tôi đã thấy một liều thuốc được đề nghị, theo kiểu không chữa căn mà chỉ chữa chứng. Từ lâu các chuyên gia chế độ gợi ý chính phủ nên chi ra nhiều hơn nữa để khoét cho ngân sách thâm thủng thêm, nhưng thúc đẩy được kinh tế linh động, khỏi bị trì đọng như hiện nay. Tuần trước Bộ trưởng Tài chính Nguyễn Sinh Hùng chính thúc đề nghị biện pháp này với Quốc Hội, nhưng các ông lãnh đạo đảng tỏ ý e ngại. Sự thật biện pháp tăng chi thâm thủng ngân sách không phải mới lạ, nó là giải pháp cổ điển của kinh tế học. Tăng chi in thêm giấy bạc để lạm phát, nhưng bơm tiền được vào những công trình công cộng, bơm vốn vào các lãnh vực công nghiệp và kinh doanh để tạo thêm công ăn việc làm. Chủ yếu là làm mọi cách cho dân có việc làm, kiếm được tiền, để dân tin tưởng và do đó thực hiện xã hội tiêu thụ, Từ sự khởi đầu đó chính quyền sẽ ghìm giữ được con ngựa lạm phát, thúc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và dần dần quân bình được ngân sách.
Biện pháp này không đơn giản mà còn rất nguy hiểm, nó phải do các chuyên gia kinh tế giỏi thực hiện mới thành công. Đây là lối chữa bệnh kinh tế cấp bách ở mặt ngoài, nó bắt buộc phải nối tiếp theo ngay bằng một liều thuốc chữa trị gốc bệnh ở lục phủ ngũ tạng. Căn bệnh nội thương của kinh tế Việt Nam là nạn tham nhũng, nạn quốc doanh, nạn kinh tế mập mờ nửa đực nửa cái, vì đảng Cộng sản chỉ muốn củng cố quyền lực đảng để chuyên chính thay vì củng cố mãi lực của dân để có một xã hội tiêu thụ.
Biện pháp đó là liều thuốc trong uống ngoài thoa. Nó nguy hiểm là vì nếu chỉ xoa bên ngoài mà không uống vào trong, nó sẽ phá sập luôn kinh tế, dân sẽ nổi loạn. Còn nếu uống vào trong, đảng sẽ mất quyền. Các ông lãnh đạo không dám xoa thuốc. Các ông sợ xoa rồi không uống là bị kẹt luôn, bắt buộc phải ngửa cổ uống thuốc chữa tận gốc. Điều các ông lãnh đạo cũng không muốn làm. Vậy các ông muốn uống thuốc gì"
Tôi không định làm một sự so sánh vì nó quá nhàm, chỉ nhấn mạnh đến một vài điểm then chốt trong bối cảnh này. Ở Việt Nam các ông lãnh đạo cộng sản thường hô “xúc tiến đổi mới” và gần đây còn nói đến “hội nhập kinh tế” coi như khẩu hiệu thời thượng. Không cần hỏi xem các ông nói như vậy rồi có làm hay không, hãy nói đến một chuyện các ông đã làm là kinh tế thị trường để thoát ra khỏi sự chết đói của kinh tế xã hội chủ nghĩa. Một cột trụ quan trọng của kinh tế thị trường là “xã hội tiêu thụ”. Kinh tế thị trường đẻ ra xã hội tiêu thụ, và xã hội tiêu thụ thúc đẩy kinh tế thị trường. Đó là một luật tương tác thiết yếu, các ông cộng sản có lẽ đã quên, hay cố ý không muốn nhìn đến.
Vậy xã hội tiêu thụ ở Việt Nam hiện nay như thế nào" Hãy nhìn đến một vài hiện tượng đầy ý nghĩa. Trước hết là sự “giảm phát” của đồng bạc Việt Nam. Khi có nạn lạm phát phi mã, đó là dấu hiệu của một nền kinh tế sắp sụp đổ, cũng giống như một cái vỏ xe hơi quá căng và sắp sửa nổ. Thế nhưng khi có sự giảm phát, đó là hình ảnh một cái vỏ xe xì hơi, dần dần xẹp lép khiến cỗ xe kinh tế phải chết đứng. Một nền kinh tế bị “giảm phát” cũng nguy hiểm như một nền kinh tế bị lạm phát phi mã. Khi giảm phát có nghĩa là giá hàng không tăng, có khi còn xuống, như vậy là hồ hởi cho người dân tha hồ mua sắm. Nhưng kỳ lạ thay, giá hàng rẻ mà không thấy dân Việt Nam mua sắm, trong khi hàng hóa bán ế chất đầy kho, nguyên vật liệu cũng chất đống, có nghĩa là công kỹ nghệ và các nhà máy ngồi chơi không. Vì dân Việt Nam không có tiền chăng" Điều đó chỉ đúng có một phần, nhất là ở những vùng thôn quê nghèo khó, hay vùng núi xa xôi. Nhưng dân thành phố ở Việt Nam có tiền và cũng không nên quên người Việt hải ngoại gửi tiền về giúp thân nhân trong nước mỗi năm có đến hơn một tỷ đô la. Vậy tại sao họ không mua sắm"
Tôi xin nói đến một điểm tâm lý xã hội chung cho mọi nước. Ở đâu người dân không tin ở tương lai kinh tế của đất nước, họ sẽ thủ, giấu tiền đi để phòng thân khi gập cơn khủng hoảng. Họ chỉ ăn xài khi tin chắc ở vận mệnh kinh tế của cả nước. Đó là trường hợp dân Mỹ hiện nay. Ở Việt Nam khi dân không mua sắm, hàng ế ẩm, bán không được nên hàng càng phải bán rẻ, vật giá đi xuống. Nhưng khi vật giá đi xuống lại khổ cho nông dân chiếm 80% dân số. Vì họ sống bằng sản phẩm nông nghiệp nên khi nông sản xuống giá, thu nhập của nông dân cũng teo lại. Nạn nghèo khổ ở nông thôn vốn là cái ngòi nổ, nay nó đã gia tăng độ nóng.
Một hiện tượng khác là sự thâm thủng ngân sách. Vì đây là “bí mật quốc gia” nên không ai rõ thâm thủng thực sự bao nhiêu, chỉ biết số chi nhiều hơn số thu khá nhiều. Bình thường khi một nền kinh tế có lạm phát cao, thâm thủng ngân sách phải lớn. Nhưng đàng này tiền giảm phát mà ngân sách vẫn thâm thủng, tại sao vậy" Đó là vì Việt Nam không phải xã hội tiêu thụ, trong khi đó thu nhập ngân sách nhà nước lại quá yếu, không thu được thuế vì buôn lậu và tham ô, xuất cảng xuống cấp thê thảm vì cạnh tranh quốc tế làm giá hàng trên thị trường thế giới hạ. Bởi vậy chính phủ không tăng thu được nên chỉ còn cách giảm chi để cố giữ cho thâm thủng ngân sách khỏi lớn thêm. Nhưng giảm chi lại làm mồi cho kinh tế xuống dốc thêm nữa.
Chúng tôi đã thấy một liều thuốc được đề nghị, theo kiểu không chữa căn mà chỉ chữa chứng. Từ lâu các chuyên gia chế độ gợi ý chính phủ nên chi ra nhiều hơn nữa để khoét cho ngân sách thâm thủng thêm, nhưng thúc đẩy được kinh tế linh động, khỏi bị trì đọng như hiện nay. Tuần trước Bộ trưởng Tài chính Nguyễn Sinh Hùng chính thúc đề nghị biện pháp này với Quốc Hội, nhưng các ông lãnh đạo đảng tỏ ý e ngại. Sự thật biện pháp tăng chi thâm thủng ngân sách không phải mới lạ, nó là giải pháp cổ điển của kinh tế học. Tăng chi in thêm giấy bạc để lạm phát, nhưng bơm tiền được vào những công trình công cộng, bơm vốn vào các lãnh vực công nghiệp và kinh doanh để tạo thêm công ăn việc làm. Chủ yếu là làm mọi cách cho dân có việc làm, kiếm được tiền, để dân tin tưởng và do đó thực hiện xã hội tiêu thụ, Từ sự khởi đầu đó chính quyền sẽ ghìm giữ được con ngựa lạm phát, thúc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và dần dần quân bình được ngân sách.
Biện pháp này không đơn giản mà còn rất nguy hiểm, nó phải do các chuyên gia kinh tế giỏi thực hiện mới thành công. Đây là lối chữa bệnh kinh tế cấp bách ở mặt ngoài, nó bắt buộc phải nối tiếp theo ngay bằng một liều thuốc chữa trị gốc bệnh ở lục phủ ngũ tạng. Căn bệnh nội thương của kinh tế Việt Nam là nạn tham nhũng, nạn quốc doanh, nạn kinh tế mập mờ nửa đực nửa cái, vì đảng Cộng sản chỉ muốn củng cố quyền lực đảng để chuyên chính thay vì củng cố mãi lực của dân để có một xã hội tiêu thụ.
Biện pháp đó là liều thuốc trong uống ngoài thoa. Nó nguy hiểm là vì nếu chỉ xoa bên ngoài mà không uống vào trong, nó sẽ phá sập luôn kinh tế, dân sẽ nổi loạn. Còn nếu uống vào trong, đảng sẽ mất quyền. Các ông lãnh đạo không dám xoa thuốc. Các ông sợ xoa rồi không uống là bị kẹt luôn, bắt buộc phải ngửa cổ uống thuốc chữa tận gốc. Điều các ông lãnh đạo cũng không muốn làm. Vậy các ông muốn uống thuốc gì"
Gửi ý kiến của bạn