Thực vậy,trừ một số đồng bào Miền Bắc di cư vào Nam, năm 1954, có chút đỉnh kinh nghiêm CS - chút đỉnh vì CS vào thì cuộc di cư bắt đầu. Phần đông dân Miền Nam, thực thà mà nói, khá "lờ mờ [ CS ] như người đi đêm". "Phó thường dân" ít phân biệt được CS với Việt minh, lơ tơ mơ về CS đã đành. Quân dân cán chính VNCH chớ đâu có lại gần, đâu có sống với CS mà " biết trong chăn có rận". Quân thấy VC (gọi là Vi xi khi nói máy hành quân) cách một trăm thước là nổ súng, ai cho lại gân nguy hiễm. Chánh có đi nghe Công dân vụ hay Ban Học tập Chánh trị của sở làm, cứ hai tuần thao thao bất tuyệt một lần về tội ác CS, được xem phim "Chúng tôi Muốn Sống" nhưng thường nghĩ đó là "tố Cộng" thôi. Cũng có một số công chức thời Pháp theo Việt Minh, biết Cộng sản khống chế tất cả, bất mãn bỏ về thành. Nhưng những người này ít hay nói về CS vì mặc cảm lầm lẫn của mình. Trí thức khoa bảng thì hiểu CS qua lý thuyết học hay đọc từ sách vở Pháp mà "Tư Bản Luận" là một cuốn sách khá chặt về lý luận thuần.
Dù Bộ Thông Tin của hai thời VNCH sử dụng rất nhiều nhân tài vật lực, cũng không vực dậy nổi tâm lý lờ mờ, chưa hiểu rõ CS ấy. Một là vì lời nói không đi đôi với việc làm của "chế độ". Thường dân không đánh giá chế độ qua chánh quyền trung ương (hiến pháp, luật pháp, tổ chức chánh quyền) mà qua hành vi của chánh quyền địa phương (xã trưởng, trưởng ấp, trưởng đồn Nghĩa quân) hay những quân nhân hành quân qua xã ấp .Than ôi, cường hào ác bá ở nông thôn, bắt gà bắt vịt khi hành quân không ít! Nên hiểu biết về CS ở Miền Nam trước 75 không nhiều và tình cảm với chánh quyền Miền Nam cũng không sâu.
Thế rồi CS chiếm cả Miềân Nam. Hàng hai triệu người trước sau đi tỵ nạn CS. Tiếng cùng là dân tỵ nạn CS ở Mỹ, nhưng thực tế kinh nghiệm về CS có nhiều khác nhau. Người đi 75 được Mỹ rước, chưa sống với CS, hay chỉ sống rất ít trước khi di cư vào Nam. Người vượt biên bằng thuyền hay bộ có kinh nghiệm nhiều hơn nhờ một số năm "đổi đời" [thành địa ngục] trong nhà tù lớn của chế độ với khẩu hiệu rất kêu nhưng rất dối, "Đảng lãnh đạo, Nhà Nước quản lý và Nhân dân làm chủ" nên trắng mắt ra và "dĩ đào vi thượng". Hiểu biết nhiều nhứt là những người đi theo chương trình HO, ODP và ROVR sau nhiều năm tù đày ở trong nhà tù nhỏ được CS gọi là "trại cải tạo" và thấm thía với câu, "Đất nước còn, còn tất cả; Đất nước mất, mất tất cả."
Dù vậy, cả ba lớp người trên vẫn chưa đủ kinh nghiệm về CS, lúc CS còn ở Miền Bắc sau 54 và chưa chiếm được Miền Nam.
Chính bài viết của tác giả Nguyễn văn Luận giúp người Việt tỵ nạn CS ở Mỹ nói riêng và trên thế giới nói chung hiểu thêm phần ấy. Bài "Hồi Ký Của Người Hà Nội" bổ túc một mảng mà người Miên Nam bị thiếu trong "bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương", nạn nhân CS.
Không phải thư tịch trong nước trước 75 và ngoài nước sau 75 không nói về thời kỳ ấy ở Miền Bắc. Có chứ. Giảûøng văn soạn rất công phu của Gs Nguyễn văn Canh - có lúc làm Tổng trưởng Chiêu Hồi - vói luận đềà làm thế nào CS kiểm soát nông dân được dạy ở Trường Luật. Những bài nói chuyện của Thượng tá hồi chánh Tám Hà trước 75 được phát thanh. Và những bài viết của Quí Oâng Bùi Tín, Nguyễn Minh Cầân sau 75 ở Hải ngoại, cùng những bài của Cựu Tướng C, Trần Độ chống Đảng, và còn rất nhiều nữa được phổ biến bằng các phương tiện tối tân của thời đại Tin học do các Phong trào chống CS. Nhưng những tài liệu ấy quá bác học và chuyên môn, rất có giá trị cho sưu khảo hơn là cho kiến thức phổ thông mà người thường vốn rất ít thì giơ øđọc và chỉ đọc những gì gần gũi và có lợi sát sườn để không bị CS lường gạt bằng các mỹ từ tuyên truyền dụng danh đạt quả như "Việt kiều yêu nuớc, khúc ruột nối dài của dân tộc".
Bài viết của tác giả Nguyễn văn Luận dùng rất nhiều chữ của CS để trong ngoặc kép. Với số "từ" chánh gốc CS nhưng ý nghĩa mỉa mai của tác giả ấy, người đọc vừa vui cười vừa thấu triệt âm mưu tuyên truyền CS. Học mà chơi, chơi mà học là cách học có hiệu quả nhứt.
Lợi ích của bài viết sẽ lớn hơn đối với thế hệ thứ hai, lớp người đến Mỹ với gia đình khi lúc còn bé thơ hay sanh tại Mỹ. Là nạn nhân gián tiếp của CS, chưa từøng "ở trong chăn" nên chưa "biết trong chăn có rận". Những cảnh đoạn trường mà một học sinh Trung học phải chịu gần như trọn đời chỉ vì một cái tội là muốn có một chút tự do để sống một cuộc đời rất bình thường. Cái giá phải trả của ý muốn thông thường ấy quá lớn, tù đày, đói lạnh, lang thang, mất nước ngay trên chính quê cha đất tổ của mình, của mình như một người ngoài vòng luật pháp. Thế hệ thứ hai của Người Việt tỵ nạn CS được ăn học ở xứ tự do, dân chủ thường xem hai yếu tính này như đương nhiên có, sẽ phải suy nghĩ nhiều khi đọc những lời viết bằng những nỗi đoạn trường, mất tuổi trẻ, mất quyền sống, mất gia đình, mất quê hương - mất tất cả - của một người bình thường ở Miền Bắc VN do CS thống trị.
Nếu bài "Hồi ký Người Hà nội" đạt được một phân lợi ích nói trên thôi, thì ngòi bút hẵn mạnh hơn gươm đao trong công cuộc đấu tranh vì tự do và nhân quyền cho dân tộc Việt.