Hôm nay,  

Nghề Rao Mõ Làng

14/11/199900:00:00(Xem: 8270)
Bạn thân,
Một thời bạn ưa giễu về nghề báo của bạn y hệt như một thằng mõ làng... Chỉ có phần nào đúng thôi nhé, bởi vì nghề mõ chỉ là tiếng nói thông tin của lý trưởng, còn bạn thì “thông tin cho sự thật” như kiểu bạn nói. Bạn xa nước lâu rồi, nên chữ nghĩa không chỉnh đâu. Để tôi trích đoạn bài nghiên cứu về nghề mõ cho bạn đọc, như sau.
Hiện nay, chưa tìm được một tư liệu thành văn nào có tính chất hành chính quốc gia, là lệnh chỉ của vua chúa về việc các làng xã phải có mõ, quy định về chức phận và phạm vi hoạt động của mõ làng. Cũng không có một truyền thuyết hoặc giai thoại nào nói về sự ra đời của nghề rao mõ. Gần đây, trên tạp chí Xưa và nay số 2 (12) tháng 2-1995, hai nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Sự và Nguyễn Xuân Diện cho rằng: “Có hai tư liệu rất quan trọng giúp “xác định niên đại” của nhân vật này là: Hồng Đức Quốc Âm thi tập và vở chèo cổ Quan Âm Thị Kính. Trong Hồng Đức Quốc Âm thi tập (ở phần phụ lục) có bài Thằng mõ... Mẹ Đốp trong chèo cổ Quan Âm Thị Kính là một vợ mõ, mà vở chèo này ra đời vào thế kỷ 15 là điều đã được khẳng định từ lâu.
Hai tư liệu này cho phép khẳng định nhân vật mõ ra đời trước khi nó được đưa vào văn học rất lâu. Vì rằng, nhân vật mõ ở đây không còn là kết quả của phản ánh bình thường, mà nó đã trở thành một ấn tượng đã quá quen thuộc và đáng ca ngợi (đó cũng là cảm hứng chủ đạo của tác giả khi viết bài thơ Thằng mõ... trong Hồng Đức Quốc âm thi tập). Và hơn thế nữa, hình tượng thằng mõ còn được quần chúng lựa chọn để bày tỏ, gửi gắm khát vọng tự do của mình (chèo cổ Quan Âm Thị Kính). Có thể nói nhân vật mõ gắn liền với cái đình làng”.
Qua khảo sát bước đầu, chúng tôi nhận thấy, hầu hết các làng Việt ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ, trừ những làng mới thành lập hoặc quá nghèo, đều từng có người rao mõ. Tuy vậy, có một điểm chung nhất, tất cả họ đều là dân ngụ cư. Phải chăng đó là do quan niệm về nghề nghiệp của người xưa" Bởi lẽ, tập thể dân làng, trước tiên, loại trừ khỏi lòng nó tất cả những ai là dân ngụ cư. Xưa kia, muốn trở thành dân “chính cư”, người ngụ cư phải thỏa mãn ít nhất hai điều kiện: đã cư trú trong làng được ba đời và có chút ít điền sản. Điều kiện thứ hai có thể chỉ là đặc điểm của một xã hội tiểu nông, trong đó quyền tư hữu đối với một mảnh đất canh tác nho nhỏ đã trở thành tiêu chuẩn làm người. Còn điều kiện thứ nhất, phải chăng, đấy lại là bản năng tự vệ của từng cộng đồng trồng trọt sống trên địa bàn hạn hẹp, luôn luôn phải đương đầu với áp lực dân số và tình trạng thiếu hụt đất canh tác" Dù sao đi nữa, trong làng, người đến ngụ cư phải gánh một thân phận thấp kém, bị dân làng khinh miệt, chỉ được dựng nhà ở rìa làng, không được vào giáp, không được tham gia mọi công việc tại đình, không được hưởng quyền lợi ruộng công, thường sống bằng nghề làm thuê, rao mõ...
Thời điểm nghề mõ ra đời cùng đặc trưng của nó cho phép khẳng định, tổ chức làng xã lúc đó đã đạt được một sự ổn định nhất định về cơ cấu. Và, mõ cũng chỉ có ở cấp làng chứ không có mõ xóm, mõ tổng hay huyện, phủ, tỉnh...

Nhiệm vụ, vị trí của người rao mõ
Người rao mõ thường bị khinh miệt gọi là “thằng mõ”, có vai trò quan trọng trong thông tin bằng miệng của xã hội Việt Nam qua nhiều thế kỷ, khi các phương tiện thông tin đại chúng chưa phát triển. Cầm cái mõ làm bằng gộc tre khô và cái dùi tre trong tay, người rao mõ đánh một hồi cho mọi người chú ý lắng nghe rồi dõng dạc cất tiếng “rao” cho cả xóm, cả làng biết tin tức hoặc mệnh lệnh mà nhà chức trách muốn thông báo. Thí dụ, khi muốn thông báo cho dân làng biết lệnh cấm thả trâu làm hại đồng lúa, lý trưởng sai “thằng mõ” đi từ đầu làng đến cuối làng, rao câu sau đây:
Lẳng lặng mà nghe
Cấm trâu ăn kẹ,
Cấm nghé băng đường,
Cấm ruộng, cấm mương
Nhược bằng ai cố ý không nghe
Quan viên thì bắt vạ
Dân đinh thì phạt đòn…

Nhờ người rao mõ mà dân làng không những biết mệnh lệnh của lý trưởng mà còn biết chiếu chỉ của vua, không những biết tin tức trong làng mà còn biết tin tức trong nước. Người rao mõ là “chân rết” của hệ thống thông tin của triều đình, là nhân viên thông tin nửa chuyên nghiệp trong xã hội Việt Nam ngày trước. Khác với gia nô, tá điền - những người làm cho một ông chủ hoặc vài ông chủ nhất định, mõ không phải là của riêng ai, mà của cả làng, gánh trách nhiệm mà cả làng giao phó. Mõ là người lao động, nhưng lao động của mõ là lao động “dịch vụ” chứ không phải lao động sản xuất. Do vậy mõ không liên quan nhiều và trực tiếp tới vấn đề ruộng đất và công cụ lao động.

Mõ không phải chỉ phục vụ cho lý trưởng và chức dịch trong làng xã, mà cho cả cộng đồng. Khi làng vào đám, cả gia đình nhà mõ được huy động ra “việc làng”. Khi chia phần, dân làng chia cho mõ một cỗ riêng, nếu ăn không hết thì mang về.
Mõ đứng ngoài các cuộc tranh chấp giữa các phe, giáp trong làng xã. Lý trưởng này đổ, lý trưởng khác sẽ thay thế, nhưng vẫn cần đến mõ và không vì thế mà thay mõ. Do “gần gũi” các chức dịch, mõ biết rõ nội dung của các cuộc tranh giành giữa các cá nhân hay dòng họ, nhưng mõ không ủng hộ một cá nhân hay phe cánh nào. Mõ không có hành vi tiêu cực trong đời sống cộng đồng.
Người làm mõ bị dân làng khinh rẻ, xa lánh, nhưng không ai căm ghét như là đối với bọn trộm cắp, lưu manh và cũng không ai muốn quan hệ với họ. Con cái mõ không được phép đi học, khi lớn lên cũng chỉ được lấy vợ, lấy chồng con nhà mõ. Vô hình trung, nghề mõ trở thành cha truyền con nối.
Nghề mõ và người làm mõ có lẽ là sản phẩm đặc thù của làng xã người Việt, chủ yếu ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Nghiên cứu nghề mõ chắc chắn sẽ làm sáng tỏ nhiều vấn đề về cơ cấu tổ chức, sự vận hành và đời sống của làng Việt nói chung.

Bạn thân,
Nhà báo như bạn không bị ép ngụ cư rìa làng, không bị buộc kết hôn cùng “làng mõ,” không làm tay chân cho lý trưởng... Hạnh phúc như vậy còn đòi gì. Biết rằng bạn không giàu, nhưng chỉ cần giàu niềm vui cũng đủ. Đâu có phải như tôi, tìm đâu ra chỗ mà làm được điều vui thích trên quê mình...

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chuyện làm hàng mã là một kinh doanh giúp nuôi sống nhiều ngàn gia đình tại VN…Trên nguyên tắc, là dị đoan nhưng có tác dụng kinh tế.
Mì gói, mì gói, mì gói... Nếu không có mì gói, thế giới này sẽ trở ngại biết là bao nhiêu. Cứu trợ nạn nhân bão lụt cũng không biết gửi gì cho tiện. Bản tin VietQ kể: Số liệu thống kê mới nhất từ Hiệp hội mỳ ăn liền thế giới (WINA) cho thấy, sau 2 năm có dấu hiệu suy giảm, lượng tiêu thụ mỳ gói của Việt Nam đã tăng mạnh trở lại.
Có phải ung thư từ ô nhiễm môi trường? Đúng như thế. Có phải ung thư vì hóa chất tẩm vào thực phẩm? Đúng như thế. Có phải ung thư vì nhà máy phun khói mù mịt bầu trời? Đúng như thế. Có phải ung thư vì nguồn nước uống bị nhiễm độc, mất trong lành? Đúng như thế. Có phải ung thư vì khói xe mù mịt, vì bụi xi măng bên công trường bay ám sang khu phố, vì khu xử lý rác phải không làm tốt công việc, vì nhậu nhẹt tưng bừng? Đúng như thế. Và ung thư cũng vì chúng ta hại nhau, phun khói thuốc vào ám đầy nhà...
Khói thuốc hại vô cùng tận... Khói thuốc sẽ làm suy kiệt dân tộc... Bản tin Infonet nêu câu hỏi: Tăng thuế thuốc lá có làm gia tăng thất nghiệp? Đối với nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam, kết quả nghiên cứu cho thấy, số việc làm tạo ra ở các ngành khác lớn hơn so với số việc làm bị mất đi của ngành thuốc lá.
Vậy là bão nữa rồi... Cũng Miền Trung, cũng quê ông Hồ... sao cứ mãi bão lụt, có phải trời hành cơn bão mỗi năm?
Bản tin Infonet kể: Các tỉnh đồng loạt cấm biển, di dời hơn 17.000 người... Để ứng phó với bão số 4, các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh đã thực hiện cấm biển; di dời 14.036 người trên các lồng bè, lều, chòi canh và 3.301 người trên đất liền đến nơi an toàn.
Đó là kỷ lục thế giới: ngành sư phạm Việt Nam kém hấp dẫn... Báo Lao Động kể chuyện Gia Lai và Thanh Hóa: “Cả ngành sư phạm chỉ có 1 sinh viên: Đào tạo thế nào?”
Câu chuyện qua sông vẫn y hệt như phim ảnh của thế kỷ trước… Báo Dân Việt kể về: Con đường tre mạo hiểm dài hơn 100m trên sông ở Lạng Sơn. Để tới trường, tới chợ phiên phía bên kia sông Kỳ Cùng (Lạng Sơn), người dân thôn Xuân Lũng phải vượt qua cây cầu tạm được kết từ 17 bè tre.
Nhiễm HIV vì dùng chung kim tiêm? Trong khi có nghi vấn như thế, người y sĩ trong cuộc nói là không xài chung kim tiêm...
Đà Lạt đẹp tuyệt vời với hồ, với đồi, với rừng... nhưng bây giờ thì, đành than thở thôi. Báo Lao Động kể: Hồ Than Thở đang... “tắc thở”...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.