Bạn,
Trên địa bàn thành phố Sài Gòn, 65 năm nay tồn tại một làng mà hầu hết trai tráng sống bằng nghề lặn tìm sắt thép phế liệu. Làng lặn hiện đã trở thành khu phố, nhưng trông vẫn chẳng khác gì những ngôi làng miệt sông nước miền Tây với những chiếc ghe neo san sát dưới sông, còn trên bờ là những ngôi nhà tuềnh toàng. Nhiều năm đã qua, không ít những người con của làng đã vĩnh viễn nằm lại đáy sông. Báo CA viết về làng này như sau.
Qua bến phà Thủ Thiêm, phía bên kia sông Sài Gòn thuộc địa phận quận 2, rẽ trái là đến làng lặn An Khánh, thuộc khu phố 2, phường An Khánh. Đến phường này, nếu muốn tìm hiểu về làng lặn thì không thể không gặp ông Mười, một trong những cao niên của làng lặn. Hơn 60 tuổi nhưng ông vẫn còn phong độ lắm, những thớ thịt săn chắc, giọng nói và tiếng cười ông sang sảng. Ông kể rằng làng lặn này có từ những năm 40 của thế kỷ trước, khi ấy chỉ có vài ba người theo nghề lặn, cũng chỉ mò phế liệu, đạn dược, dao kiếm bị chìm dưới sông. Những năm 60, khi ông Mười 20 tuổi thì làng lặn phát triển thêm một chút, có gần chục người theo nghề. Sau 1975, dân trong làng mới bắt đầu cuộc sống của một làng lặn. Một người, rồi hàng chục người theo nghề lặn. Hồi chưa tách quận (quận 2 tách ra từ huyện Thủ Đức), làng lặn này sống bằng nghề nông. Đô thị hóa dân nhập cư tứ xứ kéo về, dân số tăng chóng mặt. Đất ngày càng hẹp, ruộng ít dần. Thấy làm nghề nông không khá nổi, người ta lũ lượt rủ nhau đi lặn, đời cha truyền đời con dần dần hình thành làng lặn này.
Hiện nay, 200 thợ lặn làng An Khánh đều là những thợ lặn chân đất. Hành trang mỗi chuyến đi của họ chỉ độc một chiếc ghe, trên đó gồm một máy phát điện, một bình hơi cải tiến từ chiếc bình gas loại 8 kg, một đoạn ống hơi bằng nhựa dài hơn 50 thước và ít đồ ăn.Ông Mười nhìn con nước mấp mé bờ rạch và bảo: "Người dân làng này cứ theo con nước mà đi làm, sáng nước ròng thì đi, chiều tối nước lớn chúng về. Ông vẫy chiếc ghe của người đàn ông tên là Phú và nói phóng viên theo. Anh Phú năm nay 40 tuổi, bị vẹo cột sống sau cơn sốt bại liệt khi mới lên 10, nhưng vẫn là một thợ lặn "cừ" của làng An Khánh. Mình trần trùng trục, Phú ngậm vào miệng chiếc ống nhựa để truyền khí ôxy từ bình gas được nối với chiếc máy phát điện nhỏ trên ghe, ôm một cục sắt gần 5kg rồi thả mình xuống dòng nước.
Bạn,
Báo CA viết tiếp: nước sông Vàm Thuật chảy xiết, chiếc ghe nhỏ cứ theo dòng nước mà trôi. Trên ghe, người bạn lặn của Phú căng mắt theo hướng chuyển động của chiếc ống nhựa. Phú đã phó thác sinh mạng của mình cho người bạn lặn, người làng lặn ai cũng hiểu rằng chỉ một sơ suất nhỏ của người bạn lặn theo dõi trên ghe, là người lặn dưới đáy sông cách mặt nước hàng chục mét có thể mất mạng. Ít phút sau, Phú trồi lên rồi người bạn lặn của Phú thay anh lặn tiếp. Cứ thế, cuộc tìm kiếm dưới đáy sông trôi đều theo dòng nước. Sau một ngày ngụp lặn, sản phẩm thu được là một chiếc nồi nhôm, một chiếc đài gỉ sét và đống sắt vụn.
Trên địa bàn thành phố Sài Gòn, 65 năm nay tồn tại một làng mà hầu hết trai tráng sống bằng nghề lặn tìm sắt thép phế liệu. Làng lặn hiện đã trở thành khu phố, nhưng trông vẫn chẳng khác gì những ngôi làng miệt sông nước miền Tây với những chiếc ghe neo san sát dưới sông, còn trên bờ là những ngôi nhà tuềnh toàng. Nhiều năm đã qua, không ít những người con của làng đã vĩnh viễn nằm lại đáy sông. Báo CA viết về làng này như sau.
Qua bến phà Thủ Thiêm, phía bên kia sông Sài Gòn thuộc địa phận quận 2, rẽ trái là đến làng lặn An Khánh, thuộc khu phố 2, phường An Khánh. Đến phường này, nếu muốn tìm hiểu về làng lặn thì không thể không gặp ông Mười, một trong những cao niên của làng lặn. Hơn 60 tuổi nhưng ông vẫn còn phong độ lắm, những thớ thịt săn chắc, giọng nói và tiếng cười ông sang sảng. Ông kể rằng làng lặn này có từ những năm 40 của thế kỷ trước, khi ấy chỉ có vài ba người theo nghề lặn, cũng chỉ mò phế liệu, đạn dược, dao kiếm bị chìm dưới sông. Những năm 60, khi ông Mười 20 tuổi thì làng lặn phát triển thêm một chút, có gần chục người theo nghề. Sau 1975, dân trong làng mới bắt đầu cuộc sống của một làng lặn. Một người, rồi hàng chục người theo nghề lặn. Hồi chưa tách quận (quận 2 tách ra từ huyện Thủ Đức), làng lặn này sống bằng nghề nông. Đô thị hóa dân nhập cư tứ xứ kéo về, dân số tăng chóng mặt. Đất ngày càng hẹp, ruộng ít dần. Thấy làm nghề nông không khá nổi, người ta lũ lượt rủ nhau đi lặn, đời cha truyền đời con dần dần hình thành làng lặn này.
Hiện nay, 200 thợ lặn làng An Khánh đều là những thợ lặn chân đất. Hành trang mỗi chuyến đi của họ chỉ độc một chiếc ghe, trên đó gồm một máy phát điện, một bình hơi cải tiến từ chiếc bình gas loại 8 kg, một đoạn ống hơi bằng nhựa dài hơn 50 thước và ít đồ ăn.Ông Mười nhìn con nước mấp mé bờ rạch và bảo: "Người dân làng này cứ theo con nước mà đi làm, sáng nước ròng thì đi, chiều tối nước lớn chúng về. Ông vẫy chiếc ghe của người đàn ông tên là Phú và nói phóng viên theo. Anh Phú năm nay 40 tuổi, bị vẹo cột sống sau cơn sốt bại liệt khi mới lên 10, nhưng vẫn là một thợ lặn "cừ" của làng An Khánh. Mình trần trùng trục, Phú ngậm vào miệng chiếc ống nhựa để truyền khí ôxy từ bình gas được nối với chiếc máy phát điện nhỏ trên ghe, ôm một cục sắt gần 5kg rồi thả mình xuống dòng nước.
Bạn,
Báo CA viết tiếp: nước sông Vàm Thuật chảy xiết, chiếc ghe nhỏ cứ theo dòng nước mà trôi. Trên ghe, người bạn lặn của Phú căng mắt theo hướng chuyển động của chiếc ống nhựa. Phú đã phó thác sinh mạng của mình cho người bạn lặn, người làng lặn ai cũng hiểu rằng chỉ một sơ suất nhỏ của người bạn lặn theo dõi trên ghe, là người lặn dưới đáy sông cách mặt nước hàng chục mét có thể mất mạng. Ít phút sau, Phú trồi lên rồi người bạn lặn của Phú thay anh lặn tiếp. Cứ thế, cuộc tìm kiếm dưới đáy sông trôi đều theo dòng nước. Sau một ngày ngụp lặn, sản phẩm thu được là một chiếc nồi nhôm, một chiếc đài gỉ sét và đống sắt vụn.
Gửi ý kiến của bạn