"Một nguồn tin của Thiên Chúa giáo tại vương quốc cho biết ít nhất 15 tín đồ từ Phi Châu đã bị bắt tại Jedda trong nhiều tháng qua bởi vì họ cử hành thánh lễ theo Thiên Chúa giáo tại nhà riêng", theo một thông tấn xã.
Đây là bản báo cáo đầu tiên được kiểm chứng về những vụ bắt bớ và hành hung các tín đồ Thiên Chúa giáo tại vương quốc, theo lời bản báo cáo. "Saudi Arabia không cho phép việc cử hành thánh lễ bất cứ một tôn giáo nào ngoài Hồi giáo. Những người Do Thái không được phép hiện diện tại vương quốc và tín đồ Thiên Chúa giáo bị cảnh cáo là họ sẽ bị bắt nếu cử hành thánh lễ riêng tại tư gia".
Theo một bài báo trong tháng Mười Một của tạp chí Whistleblower với tựa đề "JIHAD: dân quá khích Hồi giáo đe doạ Hoa Kỳ", đã cho biết Saudi Arabia là một phần của sự bắt bớ tín đồ Thiên Chúa giáo đang lan tràn trong những quốc gia đang bị kiểm soát bởi chính quyền Hồi giáo tại Trung Đông, Bắc Phi và những nơi khác.
Trong một bài báo khác của tạp chí Whistlblower, "Ilam: từ chịu đựng đến kinh sợ", Paul Marshall, một trong những người am tường về bắt bớ và đàn áp tôn giáo, đã viết "Sự giới hạn của Saudi Arabia về tín ngưỡng, rất giản dị, có nghĩa là thánh lễ Thiên Chúa giáo bị cấm chỉ. Đây là điều vi phạm luật nếu mang Thánh giá hay đọc kinh Thiên Chúa. Tín đồ Thiên Chúa giáo không được cử hành thánh lễ ngay cả tại tư gia.
Bởi vì họ áp dụng luật Shari của Hồi giáo, Marshall viết thêm "Chính phủ Saudi đã làm áp lực với quân đội đồng minh trong chiến dịch Bão Sa Mạc về tín ngưỡng của họ. Họ đòi hỏi là các quân nhân Thiên Chúa giáo và Do Thái giáo không được mang biểu tượng tôn giáo của họ bất cứ khi nào họ phục vụ trên lãnh thổ Saudi Arabia. Đây là điều bắt buộc mặc dầu các quân nhân này đang bảo vệ Saudi chống lại sự xâm lăng của Iraq." Đàn áp tôn giáo tại Saudi Arabia càng ngày càng gia tăng kể từ khi có cuộc chiến vùng Vịnh.
Trong khi phương Tây thường nhắm vào những hình phạt dã man, gồm cả chặt tay, của luật Shari, "những thủ tục, luật lệ hợp pháp của họ cũng không kém phần kinh sợ" Mashall ghi nhận "Hệ thống pháp luật của Saudi không cho người bị cáo có cơ hội biện hộ đối với cáo trạng, bởi vì bị cáo không có quyền có luật sư đại diện. Tra tấn lan tràn. Những lời thú tội của bị cáo vì bị tra tấn được công nhận trước toà là chứng cớ - đôi khi là chứng cớ độc nhất -để kết tội."
Trong số tháng Mười Một của tờ Whistleblower, Marshall, tác giả bài "Máu họ đã đổ ra", đã ghi lại nhiều thí dụ của sự bắt bớ, hành hung, tra tấn và buộc phải bỏ đạo tại những nước Hồi giáo tân tiến. Dưới đây là một thí dụ:
"Mary, một cô gái Ai Cập còn trẻ tuổi, cho tôi xem cổ tay khẳng khiu của cô, với cái vòng tròn xấu xí của những vết sẹo lồi lõm. Dấu tích kinh sợ trên cổ tay của cô là một bằng chứng của sự hành hung, bắt cóc, hiếp dâm , đánh đập dã man và bị cầm tù trong chín tháng trời mà cô đã phải chịu đựng dưới tay những tên Hồi giáo cực đoan.
Mary lớn lên trong số 6 triệu người Ai Cập theo Thiên Chúa giáo, một thiểu số đang trực diện với sự đe doạ của những người Hồi giáo quá khích. Năm cô 18 tuổi, Mary đến thăm một người bạn và cô đã bị bắt cóc bởi những người Hồi giáo quá khích thuộc tổ chức "Gamat Islamiya". Sau khi hãm hiếp cô, những tên bắt cóc Mary di chuyển cô liên tục từ chỗ này sang chỗ khác. Ngoài việc bị hãm hiếp, Mary buộc phải nhịn ăn, cầu nguyện, và học kinh Koran.
Lúc đầu, Mary từ chối không chịu mang khăn che mặt. "Họ cảnh cáo tôi là nếu tôi mở khăn ra, họ sẽ tạt acid vào mặt tôi", Mary nói. Dần dần, vì không chịu nổi sự tra tấn, Mary bằng lòng ký giấy bỏ đạo Thiên Chúa để theo đạo Hồi.
Trong khi Mary bị bọn cuồng tín cầm tù, cha của cô đã đến ty cảnh sát tại Cairo để báo cáo. Tại đây ông được nhân viên cảnh sát bảo rằng hãy quên cô đi, cô đang an toàn trong tay bọn Hồi giáo quá khích. Thực vậy, người đàn ông đáng thương đã buộc phải ký giấy sẽ không tìm kiếm cô con gái nữa. Ông và những người trong gia đình đều bị cảnh cáo rằng nếu bất cứ người nào có hành động ngu xuẩn khiến Mary bị hại, họ sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm.
May mắn thay, Mary đã trốn thoát khỏi tay những tên Hồi giáo quá khích. Cô đã được sự giúp đỡ của một nhóm người trong tổ chức được gọi là "Tôi tớ của Thánh giá" và họ đã cho cô trú ngụ. Mặc dầu sự chối bỏ đạo Hồi tại Ai Cập được coi như có tội và luật Shari phạt tử hình người chối đạo, nhóm "Tôi tớ của Thánh Giá cũng đã giúp Mary trở về với Thiên Chúa giáo. Trong xã hội Ai Cập, những nạn nhân của những vụ hãm hiếp phải chịu trách nhiệm cho hành động của họ, đôi khi họ bị xử tử hình. Dầu vậy, nhóm "Tôi tớ của Thánh Giá" cũng đã giúp Mary tìm được một người chồng theo Thiên Chúa giáo.
Một đại diện của nhóm này đã nói "Tôi chứng kiến khoảng 30 đến 35 người trở về với Thiên Chúa giáo mỗi tháng. Tại Ai Cập, có khoảng 7,000 đến 10,000 trường hợp tín đồ Thiên Chúa giáo bị ép phải bỏ đạo để theo Hồi giáo. Chúng tôi có bổn phận phải cứu họ."