Hôm nay,  

Lợi Ích Đa Dạng Thuốc Statins Trị Bệnh Cholesterol

28/06/200300:00:00(Xem: 5517)
Hàng ngày chúng ta dùng thuốc statins điều trị bệnh cao mỡ, cao cholesterol trong máu. Nhờ statins đã giúp giảm rất nhiều tử vong do nguy cơ tim mạch như cơn đau tim, nhồi máu cơ tim, hay tai biến mach não. Nhưng chúng ta nên lưu ý những lợi ích khác của statins như giảm nguy cơ ung thư và giảm nguy cơ bệnh lãng quên Alzheimer của người già. Xin mời quý bạn lần lượt đi thăm những nghiên cứu liên hê ích lợi đa dạng của statins:
Statins Giảm Cholesterol giảm nguy cơ Ung Thư
Ts Matthijs Graff tại Trung Tâm Y Khoa thuộc Đại Học Amsterdam, Netherlands cho biết khi dùng statins lâu hơn 4 năm có thể giảm nguy cơ ung thư.
Nguy cơ ung thư giảm 36% cho những ai dùng thuốc statins lâu hơn 4 năm so với bệnh nhân không dùng statins. Nói cách khác, nếu bệnh nhân dùng statins mỗi ngày với liều lượng hơn 1350 lần uống có triển vọng giảm nguy cơ ung thư 40%. Đó là liều lượng thuốc mỗi bệnh nhân uống hàng ngàỵ
Nhiều yếu tố được nghiên cứu như tiểu đường, tiểu sử bệnh lý và khi bệnh nhân dùng thêm những thứ thuốc khác. Yếu tố hút thuốc lá không nằm trong nghiên cứu nàỵ.
80% bệnh nhân dùng statins thuộc loại simvastatin. Vậy có lẽ nên thêm những nghiên cứu so sánh với các statins khác.
Kết quả vừa trình bày trong Hội Nghị Hàng Năm thứ 39 của American Society of Clinical Oncology, 2003.
Statins Giảm Nguy Cơ Bệnh Tim Mạch sau Khi Ghép Thận
Bs Hallvard Holdaas và các đồng nghiệp tại Bệnh viện Norway, Oslo vừa nghiên cứu 2102 trường hợp vừa ghép thận, từng dược dùng thuốc statin (fluvastatin) đặc biệt lưu ý statins liệu có giảm nguy cơ tim mạch cho những bệnh nhân nàỵ. Phân nửa bệnh nhân điều trị fluvastatin và phân nửa bệnh nhân dùng thuốc giả. Tất cả bệnh nhân được theo dõi trong vòng 5-6 năm.
Kết quả cho thấy khoảng 32% bệnh nhân uống fluvastatin giảm nguy cơ cơn đau tim (heart attack) và 38% giảm nguy cơ bệnh tim mạch.
Đây là một kết quả đáng lưu ý vì phần lớn những bệnh nhân đã bị bệnh tim mạch, sau khi ghép thận, bệnh cũ trở thành nặng thêm, kể cả bệnh tim mạch.
Tưởng cũng cần nói thêm: chính Bs Holdaas và các cộng sự viên trước đây đã từng cho biết statins giúp giảm nguy cơ bệnh tim mạch cho bệnh nhân bị suy thận.

Kết quả kể trên đăng trong The Lancet, June 2003.
So sánh Statins (Pravastatin và Simvastatin) Giảm Nguy Cơ Cơn Đau Tim, Nhồi máu Cơ Tim:
Trong một nghiên cứu khác cho những bệnh nhân tiểu đường, đã từng bị cơn đau tim và nhồi máu cơ tim, và cholesterol không cao trong máụ Nghiên cứu thứ nhất với pravastatin. Kết quả cho thấy pravastatin giảm nguy cơ bệnh tim mạch 25%. So sánh với một kết quả khác trong một nghiên cứu khác thứ 2 với thuốc simvastatin cũng đạt được kết quả tương tự, nghĩa là cả 2 pravastatin và simvastatin đều giảm nguy cơ bệnh tim mạch cho bệnh nhân tiểu đường, hay bệnh nhân có blood glucose tolerance test bất bình thường, đã từng bị nhồi máu cơ tim, và không bị bệnh cao mỡ cholesterol.
Kết quả tổng quát của cả 2 nghiên cứu kể trên xác định dùng pravastatiin hay simvastatin cho bệnh nhân tiểu đường hay có glucose blood tolerance bất bình thường, nhưng không bị cholesterol cao trong máu, đều giảm nguy cơ tái phát nhồi máu cơ tim (MI).
Statins giảm nguy cơ Bệnh Lãng Quên Alzheimer
Các khảo cứu gia thuộc Đại Học Y Khoa Southernwestern Texas nghiên cứu 44 bê.nh nhân bị bệnh lãng quên khi về già Alzheimer cho thấy statins giảm mức độ cholesterol trong máu xuống 21.4%.
Thử nghiệm cho bệnh nhân uống 40mg statins mỗi ngày dùng một trong 3 thứ statins, hay 1 gm chất niacin, trong vòng 6 tuần lễ. Kết quả cho thấy cả 3 statins đều giảm cholesterol trong não, xuống thấp ít nhất 20%. Còn chất niacin giảm cholesterol trong não xuống thấp 10%.
Như chu’ng ta đã biết cholesterol gây thành lập, một phần nào, những tảng amyloid trong não làm hư tế bào não và là nguyên nhân gây bệnh lãng qyên Alzheimer của người già.
Theo Bs Gloria Vega cũng là người cầm đầu khảo cứu này thì nếu giảm biến dưỡng tổng hợp cholesterol trong não sẽ giảm sản xuất những tảng amyloid.
Hay nói cách khác, statins có lợi ích trong việc điều trị bệnh lãng quên Alzheimer của người già.
Kết quả nghiên cứu đăng trong báo Archives of Neurology, April 21, 2003.
Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D., F.A.A.F.P.; Ðiên Thoại: (714) 547-3915; E-mail: Tran.Ngo@verizon.net; Diễn Đàn Y Khoa: http://groups.yahoo.com/group/DienDanYKhoa/

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ung thư khởi phát khi các tế bào tích tụ những tổn hại đủ để thay đổi hành vi bình thường của chúng. Khả năng tích tụ tổn hại tăng theo độ tuổi vì các biện pháp bảo vệ trong mã di truyền, nhằm đảm bảo các tế bào hoạt động vì lợi ích tối ưu của cơ thể, sẽ suy yếu theo thời gian. Vậy thì tại sao những đứa trẻ chưa có đủ thời gian để các tế bào tích tụ tổn hại lại có thể mắc bệnh ung thư? Nếu nhìn qua lăng kính tiến hóa, ung thư phát triển từ sự ‘bất hợp tác’ của tế bào, vốn ban đầu các tế bào sẽ cùng kết hợp với nhau và hoạt động như một cơ quan. Ở trẻ em, các tế bào vẫn đang học cách hợp tác. Ung thư ở trẻ em khởi phát khi xuất hiện các tế bào ‘nổi loạn’ không chịu hợp tác và cứ phát triển bất chấp, gây tổn hại cho cơ thể.
Bộ não con người có thể thay đổi – nhưng thường với nỗ lực rất lớn và diễn ra từ từ, chẳng hạn như khi chúng ta học một môn thể thao hoặc ngoại ngữ mới, hoặc hồi phục sau cơn đột quỵ. Học các kỹ năng mới có tương quan với những thay đổi trong não; điều này đã được nghiên cứu khoa học thần kinh với động vật và quét não chức năng ở người chứng minh. Có lẽ, nếu quý vị thành thạo Giải tích 1 (Calculus 1), thì trong não quý vị sẽ có điều gì đó khác một chút. Các tế bào thần kinh vận động trong não mở rộng và co lại tùy thuộc vào tần suất chúng được vận động – một sự phản ánh của tế bào thần kinh về việc “xài hoặc mất” (use it or lose it).
Chẳng có ai vừa ra khỏi bụng mẹ là đã biết trượt ván, lướt sóng hay thậm chí là đứng kiễng chân. Không giống như các loài động vật hữu nhũ khác, con người không có khả năng giữ thăng bằng khi mới sinh – không có em bé sơ sinh nào vừa đẻ ra là đã biết đi hoặc đứng. Trước khi có được những khả năng đó, trẻ sơ sinh sẽ phát triển thị giác, thính giác, cơ, xương và não. Quá trình này mất nhiều tháng và thậm chí là nhiều năm đối với một số hoạt động.
Hội đồng Nobel tại Viện Karolinska đã quyết định trao giải thưởng Nobel về sinh lý học hoặc y học năm 2023 cho hai khoa học gia người Mỹ Katalin Karikó (gốc Hungary) và Drew Weissman hôm nay ngày 2 tháng 10, 2023, vì những khám phá của họ liên quan đến việc biến đổi base của các nucleoside (nucleoside base modifications) cho phép phát triển vắc xin mRNA hiệu quả chống lại COVID-19
Một nhóm các nhà nghiên cứu đã phát triển một phương pháp mới để nghiên cứu cách các gen có thể gây ra bệnh tự kỷ và các bệnh rối loạn về phát triển não bộ (neurodevelopmental disorders) khác: phát triển các cấu trúc nhỏ tương tự như bộ não trong phòng thí nghiệm và điều chỉnh DNA của chúng.
Trung tâm kiểm soát bệnh Hoa Kỳ CDC vừa đưa ra các khuyến nghị về thuốc chủng ngừa Covid cho mùa thu này sau khi thuốc được Cơ quan Quản trị Thực phẩm và Thuốc (FDA) của Hoa Kỳ chuẩn thuận hôm thứ hai, ngày 12 tháng 9, 2023. Sau đại dịch Covid mấy năm vừa qua, kiến thức của quần chúng về các bệnh nhiễm, các thuốc chủng ngừa (vắc xin) đã tăng lên nhiều, cũng như óc phê phán và sự nghi ngờ đối với các biện pháp y tế hay phòng ngừa do chính quyền hay các cơ quan như CDC đề xướng, lắm khi gắn liền với lập trường chính trị của mỗi người, có khi tuỳ theo tiểu bang. Bài sau đây chỉ có tính cách thông tin, dựa trên những nguồn tin tức mà người viết nghĩ là đáng tin cậy. Độc giả cần tham khảo với người săn sóc y tế cho mình để đi tới quyết định có nên dùng vắc xin nào hay không. Sau đây là những điểm chính của các thông báo của CDC cho báo chí, kèm theo chú thích để bàn thêm
Vitamin D là chất dinh dưỡng quan trọng và cần thiết cho sức khỏe. Nó giúp xây dựng và duy trì xương chắc khỏe, đồng thời hỗ trợ chức năng cơ bắp và miễn dịch. Nhưng hầu hết mọi người trên thế giới đều bị thiếu vitamin D, khiến cho nó trở thành loại supplement phổ biến nhất trên thị trường
Lập một kế hoạch điều trị trầm cảm có thể là một thách thức khó khăn. Điều này đặc biệt đúng đối với những bệnh nhân không đáp ứng với các phương pháp điều trị thông thường và đang trải qua các liệu pháp thử nghiệm như kích thích các nhân sâu trong não (Deep Brain Stimulation – DBS). Đối với hầu hết các tình trạng bệnh lý, bác sĩ có thể trực tiếp đo lường bộ phận đang được điều trị, chẳng hạn như đo huyết áp đối với các bệnh về tim mạch. Những thay đổi có thể đo lường đóng vai trò là dấu ấn sinh học khách quan (objective biomarker) của quá trình phục hồi, cung cấp các thông tin đáng giá về cách chăm sóc bệnh nhân.
Theo Cơ Quan Kiểm Soát Thực-Dược Phẩm Hoa Kỳ (FDA), khoảng 9 trong số 10 toa thuốc ở Hoa Kỳ có kê thuốc đồng dạng (thuốc generic) của một loại thuốc nguyên gốc (brand name). Tuy nhiên, có thể sẽ có nhiều người không biết là loại thuốc họ mua ở hiệu thuốc là thuốc đồng dạng hay thuốc nguyên gốc. Vậy hai loại thuốc này có gì khác biệt không? Và nếu có, nó có quan trọng không?
Từ hương cỏ mới cắt đến mùi của người thân, các loại mùi hương khác nhau luôn quẩn quanh mọi ngóc ngách trong cuộc sống. Ta không chỉ cảm nhận thấy những mùi hương xung quanh, mà chính bản thân ta cũng đang tạo ra nó. Và quý vị có biết là mùi hương cơ thể chúng ta đặc biệt đến mức có thể dùng để phân biệt mỗi cá nhân?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.