Hôm nay,  

Y Học: Ung Thư Bàng Quang Và Lợi Hại Của Cà-phê

28/01/200600:00:00(Xem: 6726)
- * Cách Mới Giản Dị Truy Tầm Ung Thư Bọng Đái

Bs H. Barton Grossoman và các đồng nghiệp nghiên cứu bệnh nhân đã từng bị ung thư bọng đái từ tháng 9, 2001 tới tháng 2, 2002. Bệnh nhân lựa từ 23 trung tâm đại học y khoa, văn phòng hành nghề tư, và trong các bệnh viện tại 9 tiểu bang, Hoa Kỳ. Tất cả có 668 bệnh nhân đã từng bị ung thư bọng đái tình nguyện vào chương trình nghiên cứu. Mục đích của nghiên cứu là muốn dùng phương pháp phân tích bạch đản NMP22 trong nước tiểu bệnh nhân ung thư bọng đái để tìm hiểu liệu có thể dùng phương pháp kể trên để sớm truy tầm ung thư bọng đái tái phát.

Kết quả cho thấy có 103 bệnh nhân bị tái phát ung thư bọng đái. Dùng nội soi bọng đái khám phá 91.3% bệnh nhân bọng đái tái phát (94/103; 95%CI, 84.1-95.8%). Tổng hợp nội soi bọng đái vơí thử nghiệm đo bạch đản NMP22 trong nưóc tiểu tăng cao tỉ lệ khám phá ung thư bọng đái tái phát (102/103; 95%CI, 94.7-100%; P= 0.005). Dùng phương pháp phân tích nước tiểu NMP22 khám phá thêm 8 trong 9 bệnh nhân bị tái phát ung thư bọng đái đã không được khám phá bằng nội soi. Phải kể thêm là 7 trong số bệnh nhân này đã ở thơì kỳ taí phát ung thư bọng đái trầm trọng.

Tính chất nhạy cảm (sensitivity) và đặc thù (specificity) của phương pháp NMP22 là 49.5% (51/103; 95%, 39.5%-59%) và 87.3% (493/565; 95% CI, 84.2%-89.9%). Kết quả cho thấy đo bạch đản NMP22 trong nước tiểu bệnh nhân bị ung thư bọng đái tăng cao khả năng truy tầm ung thư bọng đái tái phát. (JAMA, 295: 299, 2006). (Chú Thích: Trong một nghiên cứu khác cũng do nhóm của Bs H. Barton Grossman đã đăng trong JAMA, February 2005, cho thấy đo bạch đản NMP22 trong nước tiểu bệnh nhân tăng tỉ lệ khám phá truy tầm ung thư bọng đái phối hợp vơí cách soi bọng đái. Kết quả truy tầm 79 bệnh nhân trong số 1331 bệnh nhân có nguy cơ cao bị ung thư bọng đái như có tiểu sử hút thuốc lá, nước tiểu có máu và khó tiểu tiện.

Phương pháp phân tích bạch đản NMP22 khám phá thêm 4 bệnh nhân bị ung thư bọng đái mà phương pháp soi bọng đái th ông thường bị hụt, không thấy. Thử nghiệm truy tầm bạch đản trong bọng đái đã được FDA thừa nhận từ một năm rưỡi nay, còn có tên là NMP22BladderChek. Thử nghiệm có thể dùng trong phòng mạch. Thêm những nguy cơ sau đây cũng nên truy tầm ung thư bọng đái như: lính cứu hỏa, thợ mỏ, tài xế xe vận tải, thợ sơn, thợ nhuộm hay công nhân dầu lửa.)

Caffeine Giảm Luồng Máu Ðộng Mạch Vành Tim Khi Tập Thể Dục

Bs Mehdi Namdar cùng các đồng nghiệp tại Đại Học Y Khoa Zurich nghiên cứu 18 người khỏe mạnh, còn trẻ và thường uống cà-phê. Tất cả mọi người đều không uống cà-phê 36 giờ trước khi thử nghiệm. Trước hết, các chuyên gia dùng kỹ thuật PET đo luồng máu trong động mạch tim cho 10 người tình nguyện trước và sau khi đạp xe tập thể dục. Sau đó, đo luồng máu trong động mạch vành tim cho 8 người khác tập thể dục trong phòng kín có môi trường không khí loãng tương đương sống trong độ cao 15,000 bộ (4,500 thước tây). Thử nghiệm trong môi trường đặc biệt kể trên tương đương vơí tình trạng bệnh nhân bị bệnh động mạch vành tim thiếu dưỡng khí. Cả 2 nhóm người kễ trên, thử nghiệm đo luồng máu trong động mạch vành tim lần thứ 2, khoảng 50 phút sau khi mỗi người uống 200mg caffeine, tương đương vơí 2 ly cà phê.

Kết quả cho thấy caffeine không ảnh hưởng luồng máu động mạch vành tim khi không tập thể dục. Tuy nhiên sau khi tập thể dục, luồng máu trong động mạch vành tim giảm thấp (22%). Luồng máu trong động mạch vành tim giảm thấp hơn nữa (39%) khi người tình nguyện thử nghiệm trong phòng môi trường loãng không khí. Cần lưu ý là khi tập thể dục, luồng máu trong động mạch vành tim tăng cao.

Ngược lại, cả 2 kết quả nghiên cứu kể trên cho thấy caffeine giảm luồng máu trong động mạch vành tim khi tâp thể dục, sau khi uống caffeine. Giảm luồng máu trong cơ tim còn rõ hơn nữa trong môi trường sống cao độ, loãng không khí. Kết quả khuyến cáo cần thêm nghiên cứu để tìm hiểu liệu caffeine có trực tiếp giảm thấp luồng máu trong động mạch vành tim" Hay nói cách khác, cần tìm hiểu thêm liệu bệnh nhân động mạch vành tim có nên uống cà-phê trước khi tập thể dục" (Journal of the American College of Cardiology, January 17, 2006).

* Cà-Phê Có Nhiều Chất Chống Oxýt-Hóa

Cà-phê chứa chất chống oxýt hóa đứng hàng đầu. Tuy nhiên không phải vì vậy mà coi cà-phê như một loại nước uống chứa nhiều chất chống oxýt hóa và hoặc coi như một thứ đồ ăn phụ (supplement) để giảm những nguy cơ như già nua, ung thư, v...v…. Hiện giờ vẫn còn nhiều kết quả nghiên cứu tương phản về vai trò của chất chống oxýt hóa và hiện tượng biến dưỡng trong cơ thể. Có một số nghiên cứu đề cập lợi ích của cà-phê giảm nguy cơ ung thư ruột già, ung thư gan, tiểu đường loại 2, và bệnh run chân tay Parkinson: nhưng hiện bây giờ chưa có nghiên cứu nào khẳng định vai trò cà-phê với những bệnh tật kể trên.

Một số nghiên cứu khác cho rằng cà-phê làm bao tử khó chịu, khó ngủ, tim đập lẹ, và cao huyết áp. Cà phê chứa caffeine. Chất caffeine kích thích hệ thống thần kinh trung ương. Uống caffeine chưa phải bị ghiền nhưng có thể dính vào một thói quen. Chẳng hạn bất thình lình ngưng uống cà phê có thể cảm thấy nhức đầu, mệt mỏi, hay buồn ngủ. Ảnh hưởng caffeine vào trẻ em mạnh hơn người lớn. Chỉ uống một li cà phê hay nước trà đậm sẽ ảnh hưởng vào cơ thể nhiều hơn so với một ly cà-phê loãng. Uống caffeine quá liều, trên 300 milligrams mỗi ngày, làm khó ngủ, bắp thịt giật, đầu óc lẫn lộn, đi tiểu nhiều, khát nước, tử vong, ói, tiêu chảy, tim đâp nhanh và thất nhịp, kinh phong.

Nên nhớ caffeine không phải chỉ có trong đồ ăn nước uống mà còn có nhiều trong thuốc bày bán ngoài quầy. Những người, vì lý do sức khỏe, không uống được cà phê phải hỏi ý kiến bác sĩ. Những người mặc dầu không có bệnh tật, không phải kiêng cữ cà-phê chăng nữa, thì cũng chỉ nên uống ít cà-phê: một, hai ly mỗi ngày, chứ không nên uống nhiều cà-phê mỗi ngày. Nếu không thích cà phê thì có thể ăn chuối, chà là, đậu hay bắp đều là những đồ ăn đứng hàng thứ 2 hay 3, v...v…, chứa nhiều chất chống oxýt hóa.

Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D., F.A.A.F.P.; Điện Thoại: (714) 547-3915, E-mail: nmtran@hotmail.com; Diễn Đàn Y Khoa: http://groups.yahoo.com/group/DienDanYKhoa/

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong cuốn tiểu thuyết Chuyện Hai Thành Phố (A Tale of Two Cities) của Charles Dickens, được xuất bản năm 1859 và lấy bối cảnh thời Cách Mạng Pháp, có đoạn viết: “Đó là thời đại tốt đẹp nhất, cũng là thời đại tồi tệ nhất, đó là thời đại của sự khôn ngoan, cũng là thời đại của sự ngu xuẩn.” Đại dịch COVID-19 cũng là một thời đại như thế. Một mặt, khoa học đã cứu sống được nhiều người. Chưa đầy một năm sau khi phát hiện virus, Hoa Kỳ đã tạo ra và thử nghiệm vắc xin, rồi cho sản xuất, phân phối và triển khai tiêm chủng hàng loạt miễn phí cho người dân. Ước tính vắc xin COVID đã cứu được ít nhất 3.2 triệu người chỉ riêng ở Hoa Kỳ. Những thành tựu này tạo ra hy vọng về việc chúng ta có thể nhanh chóng ứng phó với đại dịch trong tương lai.
Hơn một thập niên trước, Shria Kumar, bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa và là chuyên gia nghiên cứu tại Đại học Miami, bắt đầu chú ý đến một dấu hiệu đáng lo ngại. Có một số bệnh nhân ung thư dạ dày đến gặp bà ở độ tuổi rất trẻ, và rất nhiều người là phụ nữ. Khuynh hướng này vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay. Các khoa học gia đang nỗ lực tìm hiểu tại sao điều này lại xảy ra. Vào mùa xuân năm ngoái, họ đã xác nhận rằng hiện tượng này đang diễn ra ở Hoa Kỳ. Sau khi kiểm tra hệ thống các cơ sở dữ liệu chứa các thông tin chi tiết về các trường hợp ung thư ở nhiều tiểu bang trên toàn quốc, các nhà nghiên cứu nhận thấy ung thư dạ dày đang gia tăng nhanh hơn ở phụ nữ trẻ.
Wegovy, Ozempic và Mounjaro là các loại thuốc giảm cân và điều trị tiểu đường đã gây được tiếng vang lớn trong lĩnh vực tin tức y tế. Chúng nhắm vào các con đường điều tiết liên quan đến cả bệnh béo phì và tiểu đường, và được nhiều người coi là bước đột phá trong việc kiểm soát cân nặng, đường và huyết áp. Nhưng liệu những loại thuốc này có giải quyết được nguyên nhân gốc rễ của hội chứng chuyển hóa (metabolic disease) không? Điều gì đã thúc đẩy sự phát triển của chúng từ ban đầu?
Gần đây quý vị vừa bị cảm lạnh, cúm, RSV hoặc COVID, bệnh đã qua nhưng mãi vẫn không thể hết ho? Rất nhiều người bị giống như vậy. Triệu chứng này có thể tồn tại trong nhiều tuần sau khi cơ thể chúng ta đã loại bỏ vi-rút. Michael Shiloh, một bác sĩ chuyên nghiên cứu bệnh truyền nhiễm tại Trung tâm Y tế UT Southwestern cho biết những bệnh nhân bị ho thường kể là họ đã bị bịnh từ 8 tuần trước khi đến gặp ông. Ông nói: “Chúng tôi thực sự không thể phát hiện thấy vi rút gì ở những người này nữa nhưng họ vẫn bị ho.”
Bằng cách bắt chước cơ chế bảo vệ của cơ thể chống lại nhiễm trùng do vi khuẩn, một nhóm nghiên cứu ở Lund, Thụy điển hy vọng có thể ngăn chặn tình trạng viêm phát triển thành nhiễm trùng máu, theo đài truyền hình SVT, Thụy điển. Nhiễm trùng máu là tình trạng nhiễm trùng có thể đe dọa tính mạng. Thông thường nguyên nhân là do viêm phổi, nhiễm trùng đường tiểu hoặc nhiễm trùng vết thương. Nghiên cứu từ Lund cho thấy hiện nhiễm trùng huyết phổ biến hơn so với trước đây.
Ngày nay, có nhiều người lớn hơn bao giờ hết đang phải đối mặt với chứng rối loạn khả năng tập trung- thiếu khả năng chú ý, hay ADHD. Người ta nghi ngờ nguyên nhân chính của vấn đề này là do công nghệ hiện đại đang gây áp lực lên não bộ của họ. Trong khi có gần 10% trẻ em được chẩn đoán mắc chứng ADHD, một phân tích tổng hợp gần đây từ nhiều nghiên cứu cho thấy gần 6.8% người lớn mắc chứng ADHD – tăng từ 4.4% vào năm 2003.
Bộ não của chúng ta thường có khuynh hướng tìm kiếm và phản ứng với những điều mang lại sự hài lòng, gọi là phần thưởng. Khi chúng ta đói, bộ não hiểu rằng thức ăn là một phần thưởng, còn khi ta khát, nước sẽ là phần thưởng. Nhưng lạm dụng các chất gây nghiện như rượu và các loại thuốc có thể ảnh hưởng đến các con đường tìm kiếm phần thưởng tự nhiên trong bộ não, tạo ra những ham muốn khó kiểm soát và làm giảm khả năng kiểm soát hành vi của chúng ta.
Aissam Dam, cậu bé 11 tuổi, lớn lên trong một thế giới im lặng tuyệt đối. Em sinh ra đời đã bị điếc và chưa bao giờ nghe thấy bất kỳ tiếng động nào. Khi sống trong một cộng đồng nghèo ở Maroc, em đã học cách diễn đạt bằng ngôn ngữ ký hiệu do chính mình phát minh ra và không được đi học. Năm ngoái, sau khi chuyển đến Tây Ban Nha, gia đình đưa em đến gặp một chuyên gia về thính giác, người đã đưa ra một gợi ý đáng ngạc nhiên: Aissam có thể đủ điều kiện tham gia thử nghiệm lâm sàng sử dụng liệu pháp gen. Vào ngày 4 tháng 10, Aissam được đưa đến điều trị tại Bệnh viện Nhi đồng Philadelphia, trở thành người đầu tiên được điều trị bằng liệu pháp gen ở Hoa Kỳ cho bệnh điếc bẩm sinh. Mục đích là cung cấp cho em thính giác, nhưng các nhà nghiên cứu không biết liệu phương pháp điều trị này có hiệu quả hay không, và nếu có thì em sẽ nghe được bao nhiêu.
Sau mùa lễ cuối năm là lúc các bậc phụ huynh lo lắng về con đường đại học của con cháu mình. Những con số điểm, những chữ viết tắt như GPA, SAT và ACT sẽ làm phụ huynh nhức đầu và chúng ta sẽ bàn lại về vai trò các điểm này và nhất là tương quan giữa SAT và IQ trong khung cảnh của các thay đổi gần đây ở Mỹ. Năm ngoái, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ quyết định cấm dùng màu da, nguồn gốc sắc tộc để quyết định tuyển chọn một ứng viên, từ chối không cho Đại học Harvard thực hành “tác dụng khẳng định” (affirmative action) để tăng sỉ số da màu không được đại diện đúng mức so với tỷ lệ trong dân số nói chung. Một trong những biện pháp được dùng để giảm bớt sỉ số dân Á Châu là gạt bỏ kết quả kỳ thi SAT hoặc giảm bớt tầm quan trọng của SAT, vì người gốc Á Châu có điểm SAT cao hơn nhiều so với các sắc dân khác.
Hội chứng người cứng đơ (Stiff Person Syndrome – SPS) là một căn bịnh có thể gây co thắt dữ dội và làm suy nhược các cơ, nhưng hầu hết mọi người đều không biết gì về nó mãi cho đến cuối năm ngoái, khi nữ danh ca Celine Dion công bố tình trạng bịnh của mình. Chứng rối loạn thần kinh và tự miễn dịch hiếm gặp này được cho là chỉ ảnh hưởng đến 1 hoặc 2 người trong một triệu người – và hai phần ba trong số những người bị là phụ nữ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.