Bs H. Barton Grossoman và các đồng nghiệp nghiên cứu bệnh nhân đã từng bị ung thư bọng đái từ tháng 9, 2001 tới tháng 2, 2002. Bệnh nhân lựa từ 23 trung tâm đại học y khoa, văn phòng hành nghề tư, và trong các bệnh viện tại 9 tiểu bang, Hoa Kỳ. Tất cả có 668 bệnh nhân đã từng bị ung thư bọng đái tình nguyện vào chương trình nghiên cứu. Mục đích của nghiên cứu là muốn dùng phương pháp phân tích bạch đản NMP22 trong nước tiểu bệnh nhân ung thư bọng đái để tìm hiểu liệu có thể dùng phương pháp kể trên để sớm truy tầm ung thư bọng đái tái phát.
Kết quả cho thấy có 103 bệnh nhân bị tái phát ung thư bọng đái. Dùng nội soi bọng đái khám phá 91.3% bệnh nhân bọng đái tái phát (94/103; 95%CI, 84.1-95.8%). Tổng hợp nội soi bọng đái vơí thử nghiệm đo bạch đản NMP22 trong nưóc tiểu tăng cao tỉ lệ khám phá ung thư bọng đái tái phát (102/103; 95%CI, 94.7-100%; P= 0.005). Dùng phương pháp phân tích nước tiểu NMP22 khám phá thêm 8 trong 9 bệnh nhân bị tái phát ung thư bọng đái đã không được khám phá bằng nội soi. Phải kể thêm là 7 trong số bệnh nhân này đã ở thơì kỳ taí phát ung thư bọng đái trầm trọng.
Tính chất nhạy cảm (sensitivity) và đặc thù (specificity) của phương pháp NMP22 là 49.5% (51/103; 95%, 39.5%-59%) và 87.3% (493/565; 95% CI, 84.2%-89.9%). Kết quả cho thấy đo bạch đản NMP22 trong nước tiểu bệnh nhân bị ung thư bọng đái tăng cao khả năng truy tầm ung thư bọng đái tái phát. (JAMA, 295: 299, 2006). (Chú Thích: Trong một nghiên cứu khác cũng do nhóm của Bs H. Barton Grossman đã đăng trong JAMA, February 2005, cho thấy đo bạch đản NMP22 trong nước tiểu bệnh nhân tăng tỉ lệ khám phá truy tầm ung thư bọng đái phối hợp vơí cách soi bọng đái. Kết quả truy tầm 79 bệnh nhân trong số 1331 bệnh nhân có nguy cơ cao bị ung thư bọng đái như có tiểu sử hút thuốc lá, nước tiểu có máu và khó tiểu tiện.
Phương pháp phân tích bạch đản NMP22 khám phá thêm 4 bệnh nhân bị ung thư bọng đái mà phương pháp soi bọng đái th ông thường bị hụt, không thấy. Thử nghiệm truy tầm bạch đản trong bọng đái đã được FDA thừa nhận từ một năm rưỡi nay, còn có tên là NMP22BladderChek. Thử nghiệm có thể dùng trong phòng mạch. Thêm những nguy cơ sau đây cũng nên truy tầm ung thư bọng đái như: lính cứu hỏa, thợ mỏ, tài xế xe vận tải, thợ sơn, thợ nhuộm hay công nhân dầu lửa.)
Caffeine Giảm Luồng Máu Ðộng Mạch Vành Tim Khi Tập Thể Dục
Bs Mehdi Namdar cùng các đồng nghiệp tại Đại Học Y Khoa Zurich nghiên cứu 18 người khỏe mạnh, còn trẻ và thường uống cà-phê. Tất cả mọi người đều không uống cà-phê 36 giờ trước khi thử nghiệm. Trước hết, các chuyên gia dùng kỹ thuật PET đo luồng máu trong động mạch tim cho 10 người tình nguyện trước và sau khi đạp xe tập thể dục. Sau đó, đo luồng máu trong động mạch vành tim cho 8 người khác tập thể dục trong phòng kín có môi trường không khí loãng tương đương sống trong độ cao 15,000 bộ (4,500 thước tây). Thử nghiệm trong môi trường đặc biệt kể trên tương đương vơí tình trạng bệnh nhân bị bệnh động mạch vành tim thiếu dưỡng khí. Cả 2 nhóm người kễ trên, thử nghiệm đo luồng máu trong động mạch vành tim lần thứ 2, khoảng 50 phút sau khi mỗi người uống 200mg caffeine, tương đương vơí 2 ly cà phê.
Kết quả cho thấy caffeine không ảnh hưởng luồng máu động mạch vành tim khi không tập thể dục. Tuy nhiên sau khi tập thể dục, luồng máu trong động mạch vành tim giảm thấp (22%). Luồng máu trong động mạch vành tim giảm thấp hơn nữa (39%) khi người tình nguyện thử nghiệm trong phòng môi trường loãng không khí. Cần lưu ý là khi tập thể dục, luồng máu trong động mạch vành tim tăng cao.
Ngược lại, cả 2 kết quả nghiên cứu kể trên cho thấy caffeine giảm luồng máu trong động mạch vành tim khi tâp thể dục, sau khi uống caffeine. Giảm luồng máu trong cơ tim còn rõ hơn nữa trong môi trường sống cao độ, loãng không khí. Kết quả khuyến cáo cần thêm nghiên cứu để tìm hiểu liệu caffeine có trực tiếp giảm thấp luồng máu trong động mạch vành tim" Hay nói cách khác, cần tìm hiểu thêm liệu bệnh nhân động mạch vành tim có nên uống cà-phê trước khi tập thể dục" (Journal of the American College of Cardiology, January 17, 2006).
* Cà-Phê Có Nhiều Chất Chống Oxýt-Hóa
Cà-phê chứa chất chống oxýt hóa đứng hàng đầu. Tuy nhiên không phải vì vậy mà coi cà-phê như một loại nước uống chứa nhiều chất chống oxýt hóa và hoặc coi như một thứ đồ ăn phụ (supplement) để giảm những nguy cơ như già nua, ung thư, v...v…. Hiện giờ vẫn còn nhiều kết quả nghiên cứu tương phản về vai trò của chất chống oxýt hóa và hiện tượng biến dưỡng trong cơ thể. Có một số nghiên cứu đề cập lợi ích của cà-phê giảm nguy cơ ung thư ruột già, ung thư gan, tiểu đường loại 2, và bệnh run chân tay Parkinson: nhưng hiện bây giờ chưa có nghiên cứu nào khẳng định vai trò cà-phê với những bệnh tật kể trên.
Một số nghiên cứu khác cho rằng cà-phê làm bao tử khó chịu, khó ngủ, tim đập lẹ, và cao huyết áp. Cà phê chứa caffeine. Chất caffeine kích thích hệ thống thần kinh trung ương. Uống caffeine chưa phải bị ghiền nhưng có thể dính vào một thói quen. Chẳng hạn bất thình lình ngưng uống cà phê có thể cảm thấy nhức đầu, mệt mỏi, hay buồn ngủ. Ảnh hưởng caffeine vào trẻ em mạnh hơn người lớn. Chỉ uống một li cà phê hay nước trà đậm sẽ ảnh hưởng vào cơ thể nhiều hơn so với một ly cà-phê loãng. Uống caffeine quá liều, trên 300 milligrams mỗi ngày, làm khó ngủ, bắp thịt giật, đầu óc lẫn lộn, đi tiểu nhiều, khát nước, tử vong, ói, tiêu chảy, tim đâp nhanh và thất nhịp, kinh phong.
Nên nhớ caffeine không phải chỉ có trong đồ ăn nước uống mà còn có nhiều trong thuốc bày bán ngoài quầy. Những người, vì lý do sức khỏe, không uống được cà phê phải hỏi ý kiến bác sĩ. Những người mặc dầu không có bệnh tật, không phải kiêng cữ cà-phê chăng nữa, thì cũng chỉ nên uống ít cà-phê: một, hai ly mỗi ngày, chứ không nên uống nhiều cà-phê mỗi ngày. Nếu không thích cà phê thì có thể ăn chuối, chà là, đậu hay bắp đều là những đồ ăn đứng hàng thứ 2 hay 3, v...v…, chứa nhiều chất chống oxýt hóa.
Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D., F.A.A.F.P.; Điện Thoại: (714) 547-3915, E-mail: nmtran@hotmail.com; Diễn Đàn Y Khoa: http://groups.yahoo.com/group/DienDanYKhoa/