Hôm nay,  

Câu Chuyện Thầy Lang: Hội Chứng Mẹ Rượu, Con Khuyết Tật

15/01/200500:00:00(Xem: 6128)
Ngày 8-12- 2004, Giáo sư Ann Streissguth của Đại Học Washington đã công bố kết quả một nghiên cứu về ảnh hưỡng trên thai nhi khi mẹ mang thai mà uống rượu: đứa bé sẽ bị tổn thương trầm trọng ở não bộ. Thực ra đây không phải là một khám phá mới lạ. Từ thế kỷ thứ 18, các nhà nghiên cứu và thầy thuốc bên Anh, bên Pháp đã thấy hậu quả không tốt của rượu đối với thai nhi mà người mẹ uống trong khi có thai. Ảnh hưởng này đã được ghi trong Thánh Kinh: "người nữ có thai đều được nghiêm túc khuyến cáo là không uống rượu nho hoặc đồ uống mạnh và không được ăn thực phẩm không tinh khiết để tránh tổn thương cho thai nhi". Triết gia Aristote thì nói những người mẹ say xưa, điên khùng, thường sanh ra con lù đù, chậm chạp.
Rượu là một dược phẩm xưa nhất mà nhân loại biết tới. Và rượu cũng là một trong nhiều chất độc hại mà con người tự nguyện tiêu thụ.
Tại vài quốc gia Âu Mỹ, rượu là nguyên nhân đứng đầu gây ra chậm phát triển trí tuệ, trên cả Hội chứng Down, một truờng hợp con chậm trí của mẹ luống tuổi sanh con lần đầu.
Ảnh hưởng của rượu được các giới chức y tế Pháp công bố vào năm 1968.
Năm 1973, trên tạp chí Y học Lancet, Kenneth Lyons Jones và David W. Smith đặt tên cho ảnh hưởng này là Fetal Alcohol Syndrome. Họ đã nghiên cứu hình dáng bất bình thường của năm đứa trẻ do các bà mẹ nghiện rượu kinh niên sanh ra.
Rồi đến ngày 31 tháng Năm 1977, trong chương trình phát hình buổi chiều, đài NBC đã mang trình diện hình ảnh em bé Melissa bị ảnh hưởng của rượu mà người mẹ uống khi mang thai em. Đầu em nhỏ, thân hình mảnh khảnh, mí mắt hẹp. Dung mạo bất bình thường của em bé đã gây một xúc động lớn trong quần chúng.
Ngay ngày hôm sau hai cơ quan uy tín về Bệnh Nghiện Rượu ở Mỹ vội vàng lên tiếng rằng: đàn bà có thai mà uống trên 2 drinks rượu mỗi ngày thì đều có nguy cơ sinh con dị dạng, chậm trí. Mỗi drink tương dương với 15 ml rượu nguyên chất. Họ cũng công bố kết quả các nghiên cứu dịch tễ rằng rượu là chất gây quái thai, tâm trí bất thường khi còn là bào thai hoặc khi tăng trưởng. Các hệ thống truyền thông lớn cũng vội vàng phổ biến rộng rãi tin tức quan trọng này. Từ đó, công chúng bắt đầu lưu tâm nhiều hơn với vấn nạn Mẹ-Rượu-Con -Khuyết- Tật. Giới y khoa mở rộng phạm vi nghiên cứu, điều trị. Y tế công cộng đưa ra các chương trình phòng ngừa, giáo dục hướng dẫn phụ nữ có thai đừng uống rượu.
Đến năm 1989, trên mỗi chai rượu đều ghi lời cảnh cáo về FAS. như sau:
"According to the Surgeon General, women should not drink beverages during pregnancy because of the risk of birth defects" . Việc ghi nhãn hiệu này cũng phải trải qua nhiều vận động từ năm 1977 vì các hãng sản xuất rượu bảo vệ quyền lợi phản đối. Cũng năm 1989, trên giấy khai sinh có dành một ô trống để ghi nếu người mẹ có thai mà ghiền rượu.
Giống như ảnh hưởng không tốt của thuốc lá, nhiều người cũng đứng ra kiện các nhà sản xuất rượu vì tác dụng tai hại này trên thai nhi.
Ảnh hưởng rượu trên thai nhi
1-Tác dụng.
Khi người mẹ uống rượu thì mẹ uống bao nhiêu con cũng uống bấy nhiêu vì rượu theo máu lưu chuyển sang con với cùng nồng độ. Nếu trong máu mẹ có mức rượu là 0.3 thì con cũng 0.3. Nhưng nhờ to con, lá gan lớn nên mẹ loại rượu ra mau hơn con. Thành ra người mẹ có thể say rượu trong vài giờ nhưng con tiếp tục li bì vài ngày và say khướt (binge) trong thời gian ngắn lại hại hơn là uống lai rai kinh niên.
Sau khi uống, chất rượu ethanol được chuyển thành acetaldehyde. Chính chất này có tác dụng xấu lên tế bào thai nhi. Các chuyên gia đã đề nghị một số giải thích ảnh hưởng này như sau:
a-Rượu giảm hiệu năng chất prostaglandins, một chất có liên hệ rất nhiều tới sự tăng trưởng và các chức năng của thai nhi.
b-Rượu làm giảm sự lưu thông máu từ mẹ qua con do đó chất dinh dưỡng, dưỡng khí giảm và tế bào thai nhi bị suy yếu, kém tăng trưởng.
c-Rượu cũng có thể ảnh hưởng tới sự hấp thụ khoáng chất zinc và magnesium hoặc làm thay đổi các diêu tố (enzymes), lượng kích thích tố như corticosteroid, kích thích tố tăng trưởng. Mỗi người, mỗi chủng tộc có những enzyme khác nhau để hủy rượu, nên ảnh hưởng rượu thay đổi tùy người, tùy giống.
d-Rượu làm thay đổi cấu trúc của màng tế bào, đưa đến thay đổi hình dạng, kích thước, làm chậm tăng trưởng và phân bào. Mọi tế bào đều bị ảnh hưởng, nhất là tế bào thần kinh vào giai đoạn đầu của thai nghén.
e-Rượu cũng giảm khả năng tổng hợp các chất dẫn truyền tín hiệu thần kinh cho nên các sinh hoạt trí não bị ảnh hưởng rất nặng.
2-Ành hưởng cũng thay đổi theo tuổi của đứa bé.
Tuổi còn thơ, bé hay bồn chồn, dễ kích thích, ăn ngủ khó khăn, chậm lớn, chậm phát triển, cử động không hòa nhịp.
Trước khi đi học thì chúng hay năng động, chia trí, kém nhận biết, diễn tả ngôn ngữ khó khăn
Đến khi đi học thì không chú ý, quá hoạt động, không biết làm toán, học không vô, hành động mất kiểm soát.
Lớn lên: kém trí nhớ; kém suy luận, nhận xét; không biết cách sử dụng tiền bạc; không biết hậu quả việc làm; dục tính không hợp lý; ghiền rượu thuốc; có vấn đề trong hành vi, cư xử.
Hội chứng này là một tàn tật (disability) kéo dài suốt đời, khó mà chữa. Đứa trẻ không " lớn lên là hết" (grow out of it ) vì tế bào thần kinh hư hao là không phục hoạt được. Nhiều tế bào thần kinh không được di chuyển tới vị trí định trước nên có vùng não không tăng trưởng, bỏ trống, thiếu giây thần kinh nối kết nên các chức năng bị rối loạn. Đây là một vấn đề quan trọng ảnh hưởng tới sức khỏe nạn nhân cũng như có nhiều hậu quả xấu cho gia đình và xã hội.
3- Ảnh hưởng theo giai đoạn của thai nghén
Quan sát ở xúc vật cho thấy uống rượu vào ba tháng đầu của thai nghén đưa tới khuyết tật cơ quan cơ thể; thời kỳ nhì và ba đưa đến hành vi bất thường. Nhiều quan sát cho thấy ngưng uống vào giai đoạn ba của thai nghén cũng giảm bớt một phần ảnh hưởng xấu. Dăm lần uống say mềm (binge) rồi ngưng cũng nguy hại dù sau đó ngưng hoàn toàn.
4--Về số lượng rượu .
Câu hỏi đầu tiên được nêu ra là có một mức an toàn nào cho người mẹ ghiền rượu không" Một số ý kiến là đã có nhiều thế hệ phụ nữ mang thai uống rượu mà có sao đâu. Ngoài ra, cơ thể mỗi người mỗi khác nên rất khó mà xác định số lượng nào thì có hại cho thai nhi cũng như uống bao nhiêu thì an toàn.
Số lượng uống nhiều ít được dư luận trong ngoài y giới lưu ý và trở thành một đề tài về sức khỏe công cộng. Phụ nữ được hướng dẫn, giải thích không nên uống rượu khi có thai. Truyền thông cũng nhắc nhở các bà mang bầu là đã có công sửa soạn có thai thì cũng nên tránh rượu để khỏi gây rủi ro cho con mình

Ban đầu, vấn đề còn quá mới nên nhiều thầy thuốc cho là nếu uống dưới một 30 ml một ngày thì không sao. Ngay cả chuyên gia nặng ký môn học sinh đẻ Michael D. Benson trong sách sản phụ khoa của ông ta xuất bản năm 1977 cũng cho là " đôi khi uống rượu, chẳng hạn một coctail trước bữa ăn tối, thì không có ảnh hưởng gì cho thai nhi". Nhưng sau đó vì ảnh hưởng của rượu quá rõ ràng nên sách tái bản năm 1983 nói rằng " có thai mà tránh uống rượu là điều hay nhất; rằng đôi khi uống thì được mà ghiền kinh niên thì có thể sinh ra con dị dạng, chậm trí".
Theo một quan sát của Royal College of Obstetricians and Gynecologists thì khi uống dưới 8.5 drinks một tuần hoặc 1 drink một ngày thì con không bị FAS hoặc ảnh hưởng.
Năm 1977, hai tổ chức quan trọng về bệnh nghiện rượu bên Mỹ National Institute of Alcohol Abused and Alcoholism vàNational Council on Alcoholism ra chung một thông cáo tuyên bố rằng "phụ nữ có thai mà mỗi ngày uống từ 6 drinks (khoảng 90 ml) trở lên thì có nhiều nguy cơ sanh con khuyết tật". Cẩn thận hơn nữa, hai cơ quan xác nhận thêm " ngay cả từ 2 tới 6 drinks cũng có thể gây ra tổn thương cho thai nhi".
Tạp san của Hội Y Sĩ Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 1984 có đăng một bài mà ý chung là "dù chỉ uống rượu vừa phải cũng gây ra chậm tăng trưởng cho thai nhi".
Càng ngày càng có nhiều chứng minh chắc chắn là tác hại của rượu lên thai nhi tùy thuộc vào số lượng: uống nhiều, hại nhiều; mức độ rượu cao có tác dụng xấu hơn mức độ làng nhàng, chẳng hạn khi đột nhiên uống tới say mềm là hại. Vì không đồng ý với nhau về con số, nên giới chức thẩm quyền khuyên chẳng nên uống rượu khi có bầu.
Vấn đề FAS đặt ra đúng vào lúc tỷ lệ phụ nữ, nhất là thiếu nữ, dùng rượu tăng cao.Trong khi đó kỹ nghệ sản xuất rượu lại rất phát triển và đóng góp nhiều cho ngân sách nhiều quốc gia. Rượu lại rất phổ thông, được bán hợp pháp, được quảng cáo rộng rải, được nhiều nguời uống.
Riêng với người mẹ thì cũng có nhiều vấn đề trong thời gian mang thai. Họ dễ bị băng huyết, nhau tách sớm, sẩy thai.
Dấu hiệu của khuyết tật.
Ngay khi mới "nhập thế cuộc", đứa bé đã có dấu hiệu của một người ghiền nhớ rượu: rất dễ bị kích thích, mình run rẩy, cơ thịt co rựt như lên kinh phong.
Hai thay đổi chính sau đây đã được mô tả :
1-Thay đổi hình dáng.
Mặt là nơi có những thay đổi rõ ràng, đặc biệt nhất. Đầu nhỏ, tóc mọc sau gáy, trán nhô, mặt dẹp, gò má thấp, tai thấp, mi mắt sụp, mắt nhỏ, mũi ngắn, sống mũi dẹp, môi trên mỏng đôi khi chẻ, răng nhỏ, cằm lẹm, khoảng cách giữa mũi và miệng rộng;
Lồng ngực nhô ra hoặc xẹp vào, cột sống nghiêng vẹo;
Khớp xương và tứ chi bất bình thường: ngón tay út ngắn, co quắp; dấu ngón tay mờ, cơ thịt nhão, khớp xương lỏng lẻo, cử động xương hông giới hạn;
Ngũ quan cũng bị ảnh hưởng: về thị giác thì có lé mắt (strabismus), rung rật nhãn cầu (nystagmus), cận thị cả hai mắt. Giây thần kinh mắt bị giảm sản;
Một phần ba nạn nhân bị điếc trong khi đó thì nhiều em lại có nhạy cảm thính giác bất thường. Hầu hết hay bị viêm tai giữa.
Tim thận có dị tật. Vách tâm nhĩ tâm thất thủng. Thận giảm sản, chia đôi; bọng đái có túi (bladder diverticula), ngọc hành nằm lì trong bụng.
Các em đều chậm lớn, biếng ăn, nhẹ kí, ngủ nghỉ bất thường. Đa số có thể tăng trưởng được nhưng rất chậm.
2-Chậm phát triển trí tuệ-
Hầu hết các em có chỉ số trí tuệ IQ 68 trong khi đó 2.5 dân chúng có IQ dưới 70.
Khả năng đọc hiểu ở trình độ lớp 4, khả năng toán học ở lớp hai. Về phương diện giáo dục, chúng được xếp vào loại " có thể dậy dỗ được". Chín mươi phần trăm kém khả năng tiếp nhận và diễn tả ngôn ngữ. 95% không biết tiêu tiền.
Tiếng nói lơ lớ, âm thanh trong họng, đều đều, cứng nhắc, phát âm không rõ dù ý nghĩa và nội dung bình thường.
Thời gian phản ứng chậm, kém tập trung; không phân biệt được mầu sắc; khó nhớ tên người và sự vật; kém phán xét, không biết hậu quả hành động của mình; không ý thức được tương lai; không phân biệt khen chê, ơn nghĩa; kém phối hợp các hành động.
Ngay từ khi còn bé, các em đã ngang ngược, hay đòi hỏi và gây bực mình cho người khác. Lớn lên chúng thích cô đơn, bất cần đời, không chơi với ai, không nghe ai, lười biếng, thụ động, buồn vô cớ, ăn cắp vặt, xâm phạm tình dục, lạm dụng rượu.
Một hội nghị vào năm 1980 của các chuyên gia về Hội Chứng này đã đề nghị là để định bệnh, phải có một trong các dấu hiệu của ba loại sau đây:
1-Chậm tăng trưởng trước và sau khi sanh với thiếu cân, thiếu chiều cao, đầu nhỏ so với tuổi
2-Rối loạn về hệ thần kinh trung ương với các dấu hiệu bất bình thường các chức năng thần kinh, chậm phát triển về hành vi với trí tuệ hoặc hư hao hoặc không.
3-Có ít nhất hai dấu hiệu bất thường về đầu- mặt như đầu nhỏ, mắt ti hí, mép trên rộng, môi trên mỏng, mũi ngắn, gò má dẹp.
Điều trị-Chăm sóc
Chăm sóc đăt trọng tâm vào việc giải quyết những vấn nạn xã hội của người mẹ say xưa cũng như những khó khăn của đứa con tật nguyền.
Động cơ đưa người mẹ tới nghiện rượu cần được tìm hiểu, giúp đỡ. Có vấn đề gia đình, việc làm. Có đam mê, áp lực của bè bạn. Biết hay không biết tác hại của rượu. Những chối cãi, giấu giếm củ mẹ cần được phát hiện.
Giáo dục, giải thích về hậu quả của rượu đối với mẹ và bào thai. Những khuyết tật, những chậm trí, những vần đề cá nhân và xã hội của đứa bé tăng trưởng trong say sưa của mẹ. Những tốn kém cho gia đình và ngân sách quốc gia.
Kinh nghiệm cho hay phụ nữ có thai trẻ, độc thân, kém văn hóa, ghiền thuốc lá thì lại hay uống rượu nhiều hơn. Họ cần được khuyên giải nhiều hơn.
Trường hợp cần bảo vệ thai nhi thì có thể đặt người mẹ dưới sự giám sát của pháp luật. Ghiền rượu khi có thai được nhiều người coi như một bạo hành với thai nhi, lấy đi cái quyền sống cuộc đời bình thường của chúng.
Trong hướng dẫn, giáo dục nên nhấn mạnh ở ảnh hưởng xấu của rượu và lợi ích cho cả mẹ lẫn con khi mẹ ngưng uống. Không bao giờ quá trễ để bỏ rượu, vì ngưng lúc nào là thai nhi bớt say lúc đó. Dọa nạt nhiều khi đưa tới thái độ đối kháng, bướng bỉnh.
Với con, việc chăm sóc điều trị phức tạp, tốn phí và lâu dài hơn vì đứa bé sinh ra với nhiều bệnh về thể chất và tâm thần.
Vào tuổi đi học, các em đều mang nhiều vấn đề khó khăn tại học đường. Lớn lên, các em hay có những hành vi bất xứng, phạm pháp, không giữ được liên hệ gia đình nhất là với người mẹ đã sinh ra mình. Đa số các em được chăm sóc bởi cha mẹ nuôi hoặc trong viện mồ côi. Nhiều em sau này cũng rơi vào vòng nghiện ngập, bê tha. Và chính quyền, xã hội phải mang gánh nặng cưu mang giúp đỡ các em suốt đời.
Kết luận
Tuy tỷ lệ Mẹ -Rượu-Con-Khuyết -Tật không cao, nhưng những đứa con sinh ra đều mang nhiều tàn phế của cơ thể và sống trong những hoàn cảnh đáng thương. Tất cả chỉ vì sự thiếu ý thức kèm theo một chút yếu lòng của người mẹ.
Đã mất công mang thai, đã hoài bão có con thì người mẹ cũng nên dằn lòng cho qua khỏi thời gian chín tháng mười ngày cưu mang.
Để mẹ tròn, con vuông, cho gia đình đầm ấm với tiếng nói trong vui của trẻ thơ lành mạnh.
BS Nguyễn Ý-ĐỨC-USA

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong cuốn tiểu thuyết Chuyện Hai Thành Phố (A Tale of Two Cities) của Charles Dickens, được xuất bản năm 1859 và lấy bối cảnh thời Cách Mạng Pháp, có đoạn viết: “Đó là thời đại tốt đẹp nhất, cũng là thời đại tồi tệ nhất, đó là thời đại của sự khôn ngoan, cũng là thời đại của sự ngu xuẩn.” Đại dịch COVID-19 cũng là một thời đại như thế. Một mặt, khoa học đã cứu sống được nhiều người. Chưa đầy một năm sau khi phát hiện virus, Hoa Kỳ đã tạo ra và thử nghiệm vắc xin, rồi cho sản xuất, phân phối và triển khai tiêm chủng hàng loạt miễn phí cho người dân. Ước tính vắc xin COVID đã cứu được ít nhất 3.2 triệu người chỉ riêng ở Hoa Kỳ. Những thành tựu này tạo ra hy vọng về việc chúng ta có thể nhanh chóng ứng phó với đại dịch trong tương lai.
Hơn một thập niên trước, Shria Kumar, bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa và là chuyên gia nghiên cứu tại Đại học Miami, bắt đầu chú ý đến một dấu hiệu đáng lo ngại. Có một số bệnh nhân ung thư dạ dày đến gặp bà ở độ tuổi rất trẻ, và rất nhiều người là phụ nữ. Khuynh hướng này vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay. Các khoa học gia đang nỗ lực tìm hiểu tại sao điều này lại xảy ra. Vào mùa xuân năm ngoái, họ đã xác nhận rằng hiện tượng này đang diễn ra ở Hoa Kỳ. Sau khi kiểm tra hệ thống các cơ sở dữ liệu chứa các thông tin chi tiết về các trường hợp ung thư ở nhiều tiểu bang trên toàn quốc, các nhà nghiên cứu nhận thấy ung thư dạ dày đang gia tăng nhanh hơn ở phụ nữ trẻ.
Wegovy, Ozempic và Mounjaro là các loại thuốc giảm cân và điều trị tiểu đường đã gây được tiếng vang lớn trong lĩnh vực tin tức y tế. Chúng nhắm vào các con đường điều tiết liên quan đến cả bệnh béo phì và tiểu đường, và được nhiều người coi là bước đột phá trong việc kiểm soát cân nặng, đường và huyết áp. Nhưng liệu những loại thuốc này có giải quyết được nguyên nhân gốc rễ của hội chứng chuyển hóa (metabolic disease) không? Điều gì đã thúc đẩy sự phát triển của chúng từ ban đầu?
Gần đây quý vị vừa bị cảm lạnh, cúm, RSV hoặc COVID, bệnh đã qua nhưng mãi vẫn không thể hết ho? Rất nhiều người bị giống như vậy. Triệu chứng này có thể tồn tại trong nhiều tuần sau khi cơ thể chúng ta đã loại bỏ vi-rút. Michael Shiloh, một bác sĩ chuyên nghiên cứu bệnh truyền nhiễm tại Trung tâm Y tế UT Southwestern cho biết những bệnh nhân bị ho thường kể là họ đã bị bịnh từ 8 tuần trước khi đến gặp ông. Ông nói: “Chúng tôi thực sự không thể phát hiện thấy vi rút gì ở những người này nữa nhưng họ vẫn bị ho.”
Bằng cách bắt chước cơ chế bảo vệ của cơ thể chống lại nhiễm trùng do vi khuẩn, một nhóm nghiên cứu ở Lund, Thụy điển hy vọng có thể ngăn chặn tình trạng viêm phát triển thành nhiễm trùng máu, theo đài truyền hình SVT, Thụy điển. Nhiễm trùng máu là tình trạng nhiễm trùng có thể đe dọa tính mạng. Thông thường nguyên nhân là do viêm phổi, nhiễm trùng đường tiểu hoặc nhiễm trùng vết thương. Nghiên cứu từ Lund cho thấy hiện nhiễm trùng huyết phổ biến hơn so với trước đây.
Ngày nay, có nhiều người lớn hơn bao giờ hết đang phải đối mặt với chứng rối loạn khả năng tập trung- thiếu khả năng chú ý, hay ADHD. Người ta nghi ngờ nguyên nhân chính của vấn đề này là do công nghệ hiện đại đang gây áp lực lên não bộ của họ. Trong khi có gần 10% trẻ em được chẩn đoán mắc chứng ADHD, một phân tích tổng hợp gần đây từ nhiều nghiên cứu cho thấy gần 6.8% người lớn mắc chứng ADHD – tăng từ 4.4% vào năm 2003.
Bộ não của chúng ta thường có khuynh hướng tìm kiếm và phản ứng với những điều mang lại sự hài lòng, gọi là phần thưởng. Khi chúng ta đói, bộ não hiểu rằng thức ăn là một phần thưởng, còn khi ta khát, nước sẽ là phần thưởng. Nhưng lạm dụng các chất gây nghiện như rượu và các loại thuốc có thể ảnh hưởng đến các con đường tìm kiếm phần thưởng tự nhiên trong bộ não, tạo ra những ham muốn khó kiểm soát và làm giảm khả năng kiểm soát hành vi của chúng ta.
Aissam Dam, cậu bé 11 tuổi, lớn lên trong một thế giới im lặng tuyệt đối. Em sinh ra đời đã bị điếc và chưa bao giờ nghe thấy bất kỳ tiếng động nào. Khi sống trong một cộng đồng nghèo ở Maroc, em đã học cách diễn đạt bằng ngôn ngữ ký hiệu do chính mình phát minh ra và không được đi học. Năm ngoái, sau khi chuyển đến Tây Ban Nha, gia đình đưa em đến gặp một chuyên gia về thính giác, người đã đưa ra một gợi ý đáng ngạc nhiên: Aissam có thể đủ điều kiện tham gia thử nghiệm lâm sàng sử dụng liệu pháp gen. Vào ngày 4 tháng 10, Aissam được đưa đến điều trị tại Bệnh viện Nhi đồng Philadelphia, trở thành người đầu tiên được điều trị bằng liệu pháp gen ở Hoa Kỳ cho bệnh điếc bẩm sinh. Mục đích là cung cấp cho em thính giác, nhưng các nhà nghiên cứu không biết liệu phương pháp điều trị này có hiệu quả hay không, và nếu có thì em sẽ nghe được bao nhiêu.
Sau mùa lễ cuối năm là lúc các bậc phụ huynh lo lắng về con đường đại học của con cháu mình. Những con số điểm, những chữ viết tắt như GPA, SAT và ACT sẽ làm phụ huynh nhức đầu và chúng ta sẽ bàn lại về vai trò các điểm này và nhất là tương quan giữa SAT và IQ trong khung cảnh của các thay đổi gần đây ở Mỹ. Năm ngoái, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ quyết định cấm dùng màu da, nguồn gốc sắc tộc để quyết định tuyển chọn một ứng viên, từ chối không cho Đại học Harvard thực hành “tác dụng khẳng định” (affirmative action) để tăng sỉ số da màu không được đại diện đúng mức so với tỷ lệ trong dân số nói chung. Một trong những biện pháp được dùng để giảm bớt sỉ số dân Á Châu là gạt bỏ kết quả kỳ thi SAT hoặc giảm bớt tầm quan trọng của SAT, vì người gốc Á Châu có điểm SAT cao hơn nhiều so với các sắc dân khác.
Hội chứng người cứng đơ (Stiff Person Syndrome – SPS) là một căn bịnh có thể gây co thắt dữ dội và làm suy nhược các cơ, nhưng hầu hết mọi người đều không biết gì về nó mãi cho đến cuối năm ngoái, khi nữ danh ca Celine Dion công bố tình trạng bịnh của mình. Chứng rối loạn thần kinh và tự miễn dịch hiếm gặp này được cho là chỉ ảnh hưởng đến 1 hoặc 2 người trong một triệu người – và hai phần ba trong số những người bị là phụ nữ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.