Hôm nay,  

Từ Gai Ma (gai Dầu) Đến Cần Sa :thuốc Hay Ma Túy?

28/12/201000:00:00(Xem: 9961)

Từ Gai Ma (Gai dầu) đến Cần Sa :Thuốc Hay Ma Túy"

DS Trần Việt Hưng

Tin bầu cử tháng 11- 2010:
California: Cử tri Tiểu bang California ngày 2 tháng 11 năm 2010 đã bỏ phiếu bác bỏ Dự luật số 19 nhằm ' ..cho phép những người trên 21 tuổi có thể sở hữu một số lượng cần sa không quá một ounce, được phép tiêu thụ cần sa tại một nơi không phải là công cộng, miễn là không có sự hiện diện của trẻ em, và có thể trồng cần sa tại những khoảnh đất tư hữu. Dự luật cũng cho Chinh quyền địa phương được cấp giấy phép trồng cần sa trong mục đích thương mại, bán và sử dụng cần sa tại những cơ sở được cấp giấy phép'..
   Những người đưa ra dự luật này cho rằng dự luật sẽ có thể thu thêm tiền cho ngân sách đang thiếu hụt của California ; giúp làm giảm tình trạng bạo động do ma túy từ Mexico vi giá cần sa sẽ tụt mạnh và các vụ bị bắt do vi phạm luật về cần sa sẽ giảm nhiều..
   Chánh phủ Liên Bang trước đó cho biết sẽ tiếp tục áp dụng luật pháp coi cần sa như một chất ma túy bị cấm dù cho Dự luật 19 được bỏ phiếu..thuận..
   Kết quả ghi nhận Dự luật này bị đánh bại bằng 56 % chống đối với 44 % thuận.
Oregon : Cử tri Oregon cũng bỏ phiếu không chấp thuận các đề nghị ghi trong Dự luật 74 vơi 58 % chống, đối với 42 % thuận.Dự luật đề nghị cho phép bổ xung một số điều lệ hiên hành tại Oregon về sử dụng Cần sa : Hiện nay Oregon cho phép một số người hội đủ một số điều kiện được 'đang ký' để trở thành 'người được phép trồng cần sa dùng cho y học'; không cho phép buôn bán cần sa cho những người có 'thẻ dùng cần sa', giới hạn người 'có phép' trồng ở mức 6 cây trưởng thành và 24 ounces (mỗi người)..Dự luật 74 dự trù cho mở một hệ thống cung cấp rộng rải hơn gồm các chẩn y viện và các nhà trồng với số lượng cần sa cao hơn : 24 cây/ 96 ounces cần sa..và một số điều khoản khác..
Cần sa, hiện nay tại Hoa Kỳ, vẫn là một loại cây được xếp vào loại ma túy bất hợp pháp không được phép trồng, sở hữu và sử dụng..(ngoại trừ tại một số Tiểu bang cho phép dùng trong mục đích y học với số lượng rất hạn chế..). Các tranh cãi về  dược tính của Cần sa và về tác dụng gây nghiện của cây đã kéo dài từ trên 40 năm  và vẫn còn đang tiếp tục. Hàng ngàn nghiên cứu, thử nghiệm đã được thực hiện trên toàn thế giới nhưng vẫn chưa được các chuyên viên y tế và luật pháp đồng thuận..Cơ quan điều hành ma túy tại Hoa Kỳ ( US Drug Enforcement Administration= DEA) xem 'Cần sa như một chất gây nghiện tạo những hậu quả nguy hại về sức khỏe cho người sử dụng', đồng thời kết luận 'nhiều vấn đề, nguy hại cho người sử dụng,  ngắn hạn và lâu dài đã được ghi nhận với những bằng chứng rõ rệt' . Trong khi đó Tổ chức National Organization for the Reform of Marijuana Laws (NORML) lại đưa ra những nhận định cho rằng ' So với rượu và thuốc lá, Cần sa ít nguy hại hơn rất nhiều'  và 'Cần sa, dù dùng quá liều, không gây độc hại và từ vong'..(")
Những thống kê chính thức của Tổ chức Y tế Thế giới ghi nhận: Cần sa là một loại 'thuốc' 'dùng cho 'vui' (recreational) phổ biến nhiều trên thế giơi chỉ kém rượu, cà phê và thuốc lá. Riêng tại Hoa Kỳ, có đến trên 100 triệu người đã ..thử cần sa và trong năm 2009, có lẽ đã có 25 triệu người dùng cần sa .
Danh pháp :
Một số khá nhiều tên đã được dùng để gọi cho cây. Đồng thời cũng có  những tên 'riêng' đễ gọi những từng phần của cây, và chất ly trích từ cây :
Anasha và Kif (chất nhựa và đỉnh đọt hoa trộn lẫn với lá); Banji, Hemp, Cannabis, Shesba, Dimba. Dagga, Suma, Vingory  và Machona (toàn cây); Bhang, Sawi (lá cây trưởng thành phơi khô) Charas (nhựa); Ganga (đỉnh hoa); Hashish, Marijuana= Marihuana (lá và đỉnh hoa)
Tại Việt Nam, cây được gọi dưới những tên như Gai mèo, Gai dầu, Đại ma, Gai xanh..
Pháp : Chanvre indien, Canebier.
   Chi thực vật Cannabis= Gai ma gồm ba loài chính Cannabis sativa, Cannabis indica và Cannabis ruderalis. Cannabis đã được sử dụng từ lâu trong công nghiệp sợi-giây (hemp), lấy hạt làm thực phẩm, ép hạt lấy dầu, làm thuốc tri bệnh và làm..chất ma túy. Bài này sẽ lần lượt trình bày những sự kiện về  các phương thức sử dụng Cannabis bao gồm một số vấn đề liên hệ đến những luật lệ hiện hành về  Marijuana tại Hoa Kỳ..
Đặc tính thực vật học :
Cần sa được sử dụng trên thế giới từ thời 'Đồ đá', những dấu vết cũa sợi cần sa đã đưỡc tìm thấy trên các đồ gốm tại Trung Hoa và Taiwan có niên đại từ 7000 năm trước.Sử gia người Hy lạp Herodotus đã ghi chép là cư dân tại Scythia đã hít hơi khói từ cần sa trong một số nghi lễ tôn giáo. Trong thời Trung cổ cần sa được dùng làm thực phẩm trong một số món ăn tại Đức và Ý. Cần sa được trồng tại Âu châu để lấy sợi, làm thừng trên thuyền bè.. Người Tây ban Nha đã đưa cần sa đên Tân thế giới và trồng tại Chile từ 1545 và cây cần sa đã xuất hiện tại Hoa Kỳ vào khoảng 1607 tại Richmond, Virginia..
   Về phương diện thực vật học, chi Cannabis trước đây được xếp vào họ thực vật Urticacaea (họ gai) sau đó vào họ Moraceae (dâu tằm) nhưng hiện nay vảo họ Cannabaceae (họ này còn có cây Hương bia=Houblon).
Các nhà thực vật phân loại Cannabis theo nhiều tiêu chuẩn, nhưng hiện nay tạm chia thành các nhóm :
Cây trồng riêng cho mục đích thu hoạch sợi và lấy hạt, được mô tả là loại : gây độc nghiền nhẹ, không chứa ma túy, hay loại lấy sợi.
Cây trồng để làm thuốc, chứa lượng ma túy cao.
Cây phát triển trong hoang dại.
Năm 1976, nhà thực vật Canada Ernest Small và Nhà phân loại Mỹ Arthur Cronquist, dựa theo các yếu tố di truyền, nhiễm sắc.. đưa ra bảng đề nghị là chỉ có một loài Cannabis với 2 loài phụ :
C. sativa L. subsp. sativa
C. sativa L. subsp. Indica
Và theo 2 ông trong 2 loài-phụ còn có :
C. sativa L. subsp. sativa var. spontanea là loài mọc hoang, ít độc chất.
C. sativa L. subsp. indica var. kafiristanica là loải hoang chứa lượng ma túy cao.
Theo các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ : các giáo sư William Emboden, Loran Anderson và Richard Schultes.. có thể chia chi Cannabis thành 3 loài :
C. sativa : thân cao, phân nhánh, lá nhỏ hẹp
C. indica : thấp hơn, mọc dạng hình nón, lá phụ rộng hơn
C. ruderalis : lùn, không có cành và mọc hoang trong vùng Trung Á.
Cannabis sativa : Cây thuộc loại thảo, mọc thẳng đứng, có thể cao 1-2m. Thân vuông có rãnh dọc, phủ lông mềm. Lá mọc so le, có cuống và có lá kèm; mép lá có khia răng, đầu nhọn; lá phía dưới xẻ sâu đến gần sát cuống thành 5 đến 9 thùy ; lá nơi phần ngọn có 3 thùy nhỏ hoặc nguyên.
   Hoa đơn tính, mọc khác gốc, không có cánh hoa; lá bắc nhỏ và dài. Hoa đực mọc nơi kẽ lá hay đầu cành, thành chùy ngắn, buông thõng xuống, có 5 lá đài màu vàng nhạt, 5 nhị đực đối diện với lá đài. Hoa cái mọc đơn độc nơi kẽ lá bắc, có đài hợp thành một mo hình chai, ôm lấy bầu thượng, hình cầu.
Quả thuộc loại bế quả, hình trứng dẹt, màu xám nhạt, có mũi nhọn ở đầu, không tự mở nhưng tách làm đôi do áp suất. Hạt nhỏ chứa nhiều dầu.
Cây trổ hoa trong tháng 10.
Đa số các nhà thực vật phân chia các cây Cannabis sativa thành 3 nhóm :
Cannabis sativa var. vulgaris = Gai mèo (Cần sa) cho sợi, thường trồng tại những vùng ôn đới để lây sợi, hạt để ép dầu..
Cannabis sativa var. indica =  Cần sa Ấn độ trồng tại những vùng nhiệt đới.
Cannabis sativa var. chinensis = Cần sa Tàu, mọc và trồng tại Nam Trung Hoa, Bắc Việt Nam (vùng thượng du Bắc Việt như Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái..)
(Cần sa Ấn độ và cần sa Tàu cung cấp các ma túy Haschich và Marijuana. Theo giới 'nghiền' thì Haschich là ngọn hoa, có nhiều nhựa, dùng dưới dạng hít, nhai và uống; còn Marijuana là ngọn có hoa và lá dùng dưới dạng hút)
Thành phần hóa học :
Trên 420 hợp chất khác nhau đã được ly trích từ Cannabis và được thông báo trên các tạp chí khoa học như :
Nhóm hợp chất gọi chung dưới tên Cannabinoids , trong đó chất chính là delta-9-tetrahydrocannabinol (THC), cannabidinol..Tỷ lệ THC thay đổi tùy theo thành phần của cây: cao hơn ở nhánh non, hoa, và lá; chồi, hạt và rễ thấp hơn. Hàm lượng THC cũng thay đổi tùy nơi cây được trồng và thu hoạch : Cây tại Kansas chứa khoảng 0.1 %, trong khi đó tại Jamaica hay Việt Nam cao đến 4%
Các alkaloids loại spermidin như cannabisativin, anhydro-can nabisativin..
Các hợp chất có cấu trúc steroids.
Tinh dầu dễ bay hơi trong đó có beta-caryophylen, humulen, alpha pinene, beta-pinene, limonen, myrcene..
Trong hạt : các hợp chất mới ly trích được như Feruloyl tyramine (hợp chất loại amide); p-coumaroyltyramine..
Hạt  chứa khoảng 30 % dầu béo, 19 % chất đạm, đường hữu cơ như pentosan, dextrin, enzymes như emulsin, lipase..
Trong quả : có thêm 3  lignan amides loại bis-phenylpropane (Phytochemistry Số 38-1995)
 
Cần sa trong Y-dược
Cần sa đã được sử dụng làm thuốc từ hàng ngàn năm trước. Cây đã được mô tả trong Thần nông bản thảo (5000 năm trước đây), và sau đó trong các sách thuốc cổ Hy lạp, La mã. Dược học cổ truyền Trung Hoa dùng cần sa (hỏa ma) để trị sốt rét, táo bón, đau nhức khớp xương, gút và bệnh phụ khoa. Các y sĩ Hy lạp như Dioscorides, Galien dùng nước ép từ hạt để làm thuốc trị đau. Cho đến thập niên 60 của thế kỷ 20, Âu châu và Hoa kỳ tiếp tục dùng cần sa làm thuốc để trị sưng, ho, chuột rút bắp thịt, mất ngủ, phong thấp, gút.. Tại Hoa Kỳ có nhiều đặc chế trong thành phần có chứa cần sa.. Cho đến 1941 cây còn được xem là vị thuốc chính thức ghi trong trong Chế dược thư (USP) và trong National Formulary (NF).
Hoạt tinh sinh học và Vấn đề sử dụng Cần sa trong Y học :
Các đặc tính dược học của toàn cây Cần sa (Marjuana) cũng như của từng thành phần của cây hay của những hoạt chất đã được nghiên cứu rất kỹ lưỡng và rất chi tiết. THC  có lẽ là chất quan trọng nhất để tạo ra các đặc tính dược học; Cannabinol có lẽ giúp gia tăng các hoạt tính về tâm thần. Cannabinol là sản phẩm từ sự phân hủy của THC và không có ở cây tươi. Tác động của Marijuana phát khởi ngay sau khi hít khói hoặc nhai, ăn cây. Khi hít, THC được hấp thu rất nhanh : mức sinh-khả dụng (bioavailability) lên đến gần 18% và có thể cao hơn nơi những người dùng cần sa liên tục. THC được phân bố rất nhanh trong cơ thể, nhất là tại các mô tế bào có nhiều lipid. Sau khi chích qua tĩnh mạch, khoảng 80-90% THC sẽ bị loại theo đường tiểu, và phần còn lại sẽ theo phân (nhờ mật) để bị tống xuất ra ngoài cơ thể. Các chất biến dưỡng từ THC vẫn có thể tìm thấy trong nước tiểu 10 ngày sau khi chỉ dùng cần sa một lần, và có thể đến 20 ngày nếu dùng liên tục.
(Các hoạt động về tâm thần thường phục hồi và trở về trạng thái bình thường khoảng 3 giờ sau khi hút một lượng cao cần sa qua ống điếu, ống vố hay qua máy phun hơi. Tuy nhiên thời gian này có thể kéo dài hơn khi uống hoặc nhai lá và một số các 'dư vị' cảm xúc vẫn có thể còn lại sau 1,2 ngày)
Tác dụng chống nôn mửa :
 Chưa có những báo cáo về tác dụng chống nôn mửa  của cần sa trên thú vật
Trong khi đó tác dụng chống nôn của THC đã được thử nghiệm lâm sàng nơi người với những kết quả rõ rệt. THC, dùng dưới dạng viên nang có hiệu ứng chống nôn tương đương với prochlorperazine, nhưng lại có nhiều phản ứng phụ trên hệ Thần kinh trung ương hơn. THC hữu hiệu hơn nơi những bệnh nhân đã 'lờn' các thuốc chống nôn khác và đặc biệt là rât tốt khi dùng cho các bệnh nhân ung thư cần đến liều cao methotrexate, BCNU (carmustine) và xạ trị. Chỉ có 9 trường hợp bị phản ứng nặng khi dùng THC nơi 1565 bệnh nhân.
Tác dụng trên Hệ Tim-mạch :
Nhai và hít hơi Cần sa thường đưa đến tình trạng tim đập nhanh hơn, tuy nhiên nơi những người trẻ tuổi, không ghi nhận được các thay đổi về Điện tâm đồ (ECG). Tuy cần sa gây ra tăng huyết áp, nhưng không có bằng chứng về tác hại lâu dài trên hệ tim-mạch.
Tác dụng trên phổi :
Các phản ứng khó chịu do cần sa gây ra cho cuống phổi và phổi đã được ghi nhận khá đầy đủ nơi những người hút cần sa. Tuy hút cần sa ngắn hạn gây ra sự tăng độ giản nở của phổi, và giảm sự co thắt cuống phổi nơi người bệnh suyễn nhưng hút cần sa lâu dài lại gây ra những rối loạn về chức năng phổi. Dùng cần sa thường xuyên co thể đưa đến các bệnh nghẽn phổi như sơ tế bào gian bào phổi. Trong một thử nghiệm so sánh các tác động phụ do hút thuốc lá với hút cần sa cho thấy chỉ hút một điều cần sa đã đủ tạo ra những giảm sút trong các chức năng sinh hoạt bằng hút đến 16 điếu thuốc lá (American Review of Respiratory Diseases Số 7-1978). Một nghiên cứu mới hơn, đánh giá tác hại của khói thuốc lá và khói cần sa cho thấy các chất độc hại tế bào ở trong khói cần sa có thể không gây tác hại cho những người hit phải khói Pharmacology and Biochemistry Behavior Số 40-1991).
 Các loại cần sa khác nhau có thể chứa trong khói những lượng hydrocarbon đa vòng khác nhau, lượng này cao hơn đến 50% so với số lượng hydrocarbon trong khói thuốc lá. Nồng độ cao này thường được cho là có liên hệ đến bệnh ung thư phổi.
Lá cần sa thường bị nhiễm các bào tử của nấm mốc : trong một thử nghiệm có đến 11 trong 12 mẫu thử bị nhiễm, bào tử nấm loại aspergillus này có thể theo khói để vào phổi người hút gây ra tình trạng phổi mẫn cảm với nấm mốc (New England Journal of Medicine Số 304-1981)
Cần sa và ung thư :
Khi thoa trên da chuột các hạt ngưng tụ từ khói cần sa, gây ra sự bội sinh tế bào nơi hạch mỡ. Trong một thử nghiệm khác, nhựa từ thuốc lá thoa trên da chuột gây ung thư mạnh hơn là nhựa cần sa. Sinh thiết tế bào cuống phổi nơi những người hút thuốc lá và những người hút cần sa đều cho thấy những thay đổi có thể đưa đến ung thư (JAMA Số 246-1981).
Tác động vào Trung Tâm Thần Kinh :
Cần sa gây những rối loạn về thời gian phản ứng, về sự phối hợp giữa các hoạt động cơ học và cảm xúc về thị giác. Cần sa có thể gây các phản ứng hoảng loạn, phản ứng hồi tưởng bất chợt (flashbacks) và nhiều rối loạn tâm thần xúc động;  Trẻ em và người vị thành niên thường bị phản ứng mạnh hơn. Những sự sai biến  về  khái niệm thời gian, trong thị giác (thấy những hình ảnh biến dạng kỳ lạ) , thính giác (nghe thấy những tiếng động bất thường)  có thể xẩy ra nơi người dùng cần sa. Do khả năng có thể làm cho người dùng dễ đi đến lạm dụng nên Bộ Y Tế Hoa Kỳ đã xếp cần sa vào loại Ma túy Bảng I . Người dùng cần sa thường có khuynh hướng chọn các loại chứa nồng độ cao THC (1.95%)..
Tác động trên Hệ nội tiêt :
Phụ nữ dùng cần sa lâu dài có thể bị rối loạn về kinh nguyệt, kể cả những chu kỳ không có rụng trứng. Sự hư hại cho bào thai có thể xẩy ra nơi thú vật thử nghiệm và nơi người. THC có thể ảnh hưởng trên sự bài tiết kích thích tố gonadotropins nơi tuyến thùy. Nơi chuột đã bị cắt buồng trứng, chích THC ở liều thấp gây ức chế sự tiết kich thich tố thúc hoàng-thể (luteinizing hormone) đến 68%. Nơi phái đực, các kết quả về tác động hạ testosterone không đồng thuận : tuy có những báo cáo ghi nhận số đếm tinh trùng bị giảm hạ, cấu trúc tinh trùng thay đổi và độ di động của tinh trùng chậm đi.
Tác động trên thị giác :
Dùng cần sa có thể bị gia tăng sự co mạch nơi võng mạc. Cần sa và THC có khả năng làm giảm hạ áp xuât nội nhãn nơi bệnh nhân bị cườm (glaucoma). Tuy có một số nghiên cứu ghi nhận sự hữu hiệu thật sự của thuốc nhưng chưa biết được là phương pháp trị liệu bằng cần sa có thể bảo tồn được chức năng của thị giác không (Journal of Pharmacy and Pharmacology Số 40-1988). Sự giảm áp suất nội nhãn (IOP) tuy xẩy ra nơi người bệnh sau khi hút cần sa, nhưng hoạt tính này không kéo dài, đồng thời cũng có những nghi ngại về sự kiện giảm lưu lượng của máu đi về các thần kinh thị giác. Cần sa được xem là tác động trên IOP bằng cách gắn vào các thụ thể loại CB receptors nơi mắt.
Cần sa để trị đau :
Cần sa cho thấy có thể hữu dụng để giúp giảm đau, để trị một số bệnh về thần kinh như kinh phong, rối loạn lưỡng cực (bipolar disorder), hội chứng Tourette. Cần sa giúp thữ giãn bắp thịt trong trường hợp bệnh Multiple Sclerosis (MS)..
Các thuốc đặc chế hợp pháp từ Cần sa :
Tuy Cần sa và những chế phẩm phát xuất từ Cần sa được xếp vào Bảng I, nhưng  có một số đặc chế được phép lưu hành tại Hoa Kỳ và Canada :
Dronabinol (Marinol) Đây là dạng thuốc tổng hợp từ delta-9-THC, được FDA chấp thuận vào 1985 và lưu hành trên thị trường dươi dạng thuốc viên nang mềm chứa 2.5 hoặc 10 mg hoạt chất. Liều thông thường là uống 2.5 mg ngày 2 lần trước ăn trưa và ăn tối. Liều tối đa có thể tăng đến 20 mg/ngày. Thuốc được dùng để trị buồn nôn, ói mửa khi trị ung thư bằng hóa chất liệu pháp và giúp tạo cảm giác thèm ăn nơi người bệnh HIV. Hoạt chất được hòa tan trong dầu mè nên không thể dùng để..hút. Marinol được xếp vào Bảng III.
Nabilone (Cesamet) Thuốc tổng hợp, nhằm thay thế cho nhóm Cannabinoids, do Công ty Eli Lilly phát triển và được FDA chấp thuận vào năm 2006. Nabilone cũng được dùng để trị buồn nôn vá ói mửa cho bệnh nhân ung thư khi trị bằng hóa chất liệu pháp, liều thường dùng là 1-2mg, ngày 2 lần. Khi so sánh với các thuốc chống nôn thông thường như metoclopramide, prochlorperazine.. các thuốc cannabinoids cho thấy có hoạt tính tương đương, người bệnh dễ chấp nhận và đặc biệt là rất hữu hiệu khi dùng cho trẻ em, và ít xẩy ra phản ứng phụ. Nabilone đang được nghiên cứu, vào giai đoạn 2, để dùng làm thuốc hạ nhãn áp và thuốc an thấn.
Delta-9-THC/Cannabinol (Sativex) Đây là đặc chế được chấp thuận tại Canada để trị các trường hợp đau nhức thần kinh ngoại vi trong các bệnh MS (Myltiple Sclerosis) và đau nơi người ung thư. Thuốc đang được thử nghiệm tại Hoa Kỳ để tri đau cho người ung thư.. Sativex được trích từ một 'chủng trồng=cultivar' Cannabis riêng biệt và là một hổn hợp gồm delta-9-THC và Cannabinol và đặc biệt nhất là thuốc ở dạng 'thuốc xịt=spray'.
Cần sa trong Y dược cổ truyền Đông phương :
   Dược học cổ truyền Trung Hoa đã sử dụng hạt cần sa làm thuốc từ hàng ngàn năm trước. Vị thuốc hay Hỏa ma nhân, Đại ma nhân đã được ghi chép trong Thần nông bản thảo kinh.
Dược học Kampo (Nhật) gọi vị thuốc là mashinin
   Hỏa ma nhân được xem là có vị ngọt, tinh bình, có tác dụng nhuận táo, hoạt trường, thông tiện; tác động vào các kinh mạch thuộc Tỳ, Vị và Đại tràng.
Dưỡng và Nhuận tràng : dùng trị các chứng táo bón nơi người cao niên, táo bón sau cơn bệnh kéo dài, sau khi sinh nở; thường được phối hợp cùng Đương quy, Sinh điạ hoàng để trị táo bón do khô tân dịch, và do 'Huyết' suy.
Dưỡng 'Âm', bổ Âm dùng trong trường hợp Âm suy gây táo bón; dùng phối hợp với Bạch thược, Táo nhân.
Thanh 'Nhiệt' giúp lành vết lở dùng làm thuốc trợ giúp điều trị các vết lở bên trong miệng do 'Hõa vượng tại Vị', phối hợp vơi Kim ngân hoa, Cam thảo..
Liều thường dùng : từ 9-18 gram
Tại Ấn độ, có 3 chế phẩm từ Cannabis : Bhang là bột tán từ toàn cây đã phơi khô, khi dùng được uống với nước hay sữa; Ganja gồm các cành có hoa của cây cái, thường cuốn thành điếu để hút, để nhai; Charas là nhựa cây để hút hoặc nhai. Dược học cổ truyền Ấn độ (Ayurveda) cũng dùng Cần sa để trị bệnh : Toàn cây được dùng để kiện vị, chống co giật, giảm đau, trị kinh phong. Lá trị no hơi đầy bụng, trị bệnh ngoài da..
Cần sa và Vấn đề luật pháp
Tạp chí US Pharmcist, số tháng 10 năm 2010, trong bài Medical Marijuana đã tóm lược tình trạng luật pháp của Cần sa tại Hoa Kỳ
Theo' US Pharmacist' thì sau đây là những diễn biến chinh :


Điều luật nguyên thủy về ma túy, áp dụng tại Hoa Kỳ the Harrison Narcotics Tax Act năm 1914 về buôn bán và nhập cảng các chất ma túy, đã không bao gồm cần sa. Giơi truyền thông Hoa Kỳ trong các năm 1920s đã loan tin nhiều về vấn đề gia tăng sử dụng cần sa làm thuốc tạo 'cảm giác, vui chơi' đồng thời kèm theo những vụ bạo động, tội ác do giới nghiền cần sa gây ra và sau đó đến cuối thập niên 1930s thì hầu như tại tất cả các Tiểu bang đều áp dụng các luật lệ đặt việc buôn bán và sở hữu cần sa ra 'ngoài vòng pháp luật' Các cố gắng của Chinh phủ Liên bang để cấm đoán cần sa đã được Harry J Anslinger, Giám đốc Bureau of Narcotics and Dangerous Drugs khởi xướng. Ông điều trần trước Quốc hội là Cần sa gây nghiện, đưa đến việc phạm tội ác bạo hành, thoái biến tâm thần và những người trẻ tuổi dễ mắc vào vòng nghiện ngập cần sa hơn là nghiện các loại ma túy khác.
 Năm 1937, điều luật Liên bang Marihuana Tax Act được ban hành đặt việc sử dụng cần sa (ngoài mục đích y học) ra ngoài vòng pháp luật. Điều luật này có mục đích chính là để giới hạn việc trồng cần sa và đánh thuế vào mọi dịch vụ buôn bán cần sa.Và để được phép dùng cần sa trị bệnh, Luật này cũng đặt ra những điều khoản bắt buộc các y sỉ cho toa và dược sĩ cấp thuốc phải ghi danh và trả thuế..Các điều khoản khó khăn này đã khiến việc biên toa cần sa trở thành nhiêu khê đến mức hầu như không ai muốn..làm. Luật còn miễn trừ, không áp dụng cho các thành phần của cây như chồi trưởng thành, sợi cây, dầu ép từ hạt, hạt được vô sinh hóa, khử trùng.
   Sau đó, cần sa được xếp bao gồm trong các loại ma túy trong Comprehensive Drug Abuse Prevention and Control Act of 1970 (Controlled Substances Act=CSA), và được xếp vào Bảng I.(Điều luật không phân biệt loại cần sa , gồm chung mọi loại kể cả loại dùng lấy sợi trong công nghiệp) . Thuốc xếp trong bảng này được xem là có khả năng cao để bị lạm dụng, thiếu những bằng chứng hữu dụng trong y học tại Mỹ, và chưa có đủ bằng chứng cho việc an toàn trong trị liệu. Quyết định này cho thấy : đối với Quốc hội Hoa Kỳ việc dùng cần sa trị bệnh không có căn bản y học. Quốc hội cũng xếp cần sa vào một bảng 'tạm', 'treo' để chờ thêm các nghiên cứu do một Ủy ban Quốc gia Ùy ban này sau đó đề nghị..'bỏ cần sa' ra ngoài bảng nhưng TT Nixon không đồng ý và cho đến nay Cần sa vẫn ở trong Bảng I
   Năm 1972, một bản thỉnh nguyện đã được đệ nạp với Cơ quan Bureau of Narcotics and Dangerous Drugs (tiền thân của DEA) xin xếp Cần sa vào Bảng I I để các Bác sỉ có thể ghi toa; nhưng một loạt các cuộc đối đầu về luật pháp đã diễn ra sau đó cho đến khi Tòa Kháng cáo US (US Court of Appeal, DC Circuit) , năm 1994 phán quyết 'giữ nguyên' quyết định của DEA : cần sa tiếp tục ở lại trong Bảng I.
Năm 1976, một bệnh nhân, Ông Robert Randall nộp một đơn thỉnh nguyện đến FDA và sau đó đã thành công trong một vụ kiện Chinh quyền cho Ông dùng cần sa để trị bệnh glaucoma, viện dẫn lý do nhu cầu y học. Sau vụ kiện này, Chính phủ Hoa Kỳ cho thành lập Chương trình Compassionate Investigational New Drug (IND). Chương trình cho phép các bác sĩ ghi toa cần sa cho các bệnh nhân ghi danh vào các chương trình liên bang, tuân theo một số biện pháp gắt gao về khoa học, và cần sa sẽ được trực tiếp cung cấp từ một 'nguồn liên bang' để tránh việc người bệnh tự trồng lấy. Nguồn cần sa duy nhất này là cây trồng tại nông trại của National Institute on Drug Abuse (NIDA), tại Trường Dược ĐH Mississippi : cần sa được gửi về North Carolina, để được cuốn thành thuốc hút chứa lượng theo tiêu chuẩn (thị trường..đen) là 2% và hiện nay là 3.5 %. Tuy nhiên thời gian để một bệnh nhân được chấp thuận vào chương trình kéo dài từ 4 đến 8 tháng...gây nản lòng nên ít bệnh nhân chịu ghi danh..Để ứng phó với những khó khăn trên, 31 Tiểu bang tại Hoa Kỳ, từ 1982, đã tự đặt những chương trình riêng : 21 Tiểu bang có những Chương trình Nghiên cứu về tính cách trị bệnh của cần sa (therapeutic research programs= TRP), dựa theo chương trình liên bang, đặt ra các thử nghiệm lâm sàng để xác định nhu cầu ghi danh bệnh nhân và bệnh nhân co thể nhận cần sa từ các bác sĩ  có ghi tên tham gia vào Chương trình; thuốc vẫn từ NIDA gửi đến, và các tiêu chuẩn xét nhập tương đối ít giới hạn hơn. Tuy nhiên vì các thủ tục thành lập các TRP rất gắt gao và do Liên Bang giám sát nên chỉ có 8 trong số 22 chương trình của các Tiểu bang hoạt động được..New Mexico, tiểu bang đầu tiên tổ chức TPR vào 1978 đã gặp trở ngại khi FDA đòi hỏi phải có sự so sánh với placebo khi cho phát cần sa cho bệnh nhân..
Các chương trình cấp Tiểu bang :
Chương trình IND bị đình chỉ vào năm 1992 và các nguồn cung cấp cần sa 'hợp pháp' không còn nữa. Do đo nhiều Tiểu bang đã tự tìm phương thức giải quyết.
Cho đến 2010 : 14 Tiểu bang đã có những điều luật cho phép bệnh nhân dùng và sỡ hữu cần sa cho nhu cầu trị bệnh cá nhân vơi sự đồng ý của BS trị bệnh, và đa số cho phép người bệnh hay người săn sóc cho bệnh nhân được phép tự trồng cần sa dùng trị bệnh. 14 tiểu bang này gồm Alaska, California, Colorado, Hawaii Maine, Michigan, Montana, Nevada, New Jersey, New Mexico, Oregon, Rhode Island, Vermont và Washington.
Tiểu bang thứ 15 :Maryland  tuy bảo vệ người bệnh sỡ hữu (nhưng không được tự trồng) cần sa không bị xử tù nhưng vẫn có thể  bị..phạt.
   Có thêm 8 Tiểu bang có luật cho phép người bệnh sỡ hữu cần sa theo toa BS, nhưng vì không có nguồn cung cấp cần sa hợp pháp nên các điều luật tại các tiểu bang này chỉ có tinh cách tượng trưng. Tại 4 Tiểu bang khác, cần sa được xếp vào một bảng để BS có thể ghi toa theo luật tiểu bang, nhưng cũng chỉ có tinh cách tượng trưng vì luật liên bang vẫn cấm ghi toa cần sa. Tổng cộng có 3 Tiểu bang và District of Columbia công nhận giá trị trị bệnh của cần sa..nhưng việc công nhận đâu có phải là cho phép người bệnh sử dụng "
Các điều khoản trong các đạo luật cho phép dùng Cần sa tại từng tiểu bang cũng không đồng nhất, ngay cả các bệnh được phép chữa bằng cần sa cũng khác nhau : tất cả mọi tiểu bang đều cho phép người HIV/AIDS , người ung thư..sử dụng cần sa, tất cả ngoại trừ một tiểu bang cho phép dùng cần sa để trị glaucoma, và chỉ California cho dùng cần sa để trị đau đầu loại migraine, và chỉ Michigan cho phép dùng trị ALS. Trong số 14 tiểu bang có 11 tiểu bang có chương trình ghi danh/ thẻ nhận dạng, nhưng tieu chuẩn thay đổi tùy nơi. Đa số các tiểu bang giúp bảo vệ người ghi danh khỏi bị bắt hay truy tố. Số lượng được phép sở hữu cũng thay đổi : từ 1 oz và không quá 3 cây ở Nevada và Alaska đến 24 oz và 15 cây ở Washington. California phân biệt rõ ràng giữa người sữ dụng có đăng ký và người không đăng ký. Người có ghi danh có thể sở hữu đên 8 oz và 6 cây trưởng thành hay 12 cây non; trong khi đó người không đăng ký chỉ được phép có một số lượng vừa đủ..cho nhu cầu điều trị'..
Trường hợp California :
California là tiểu bang đầu tiên đã hợp thưc hóa việc dùng Cần sa trong mục đich trị bệnh, sau khi thông qua Đạo luật Compassionate Use Act vào năm 1996. Mục đích của đạo luật được ghi là :' Để giúp cư dân California có quyền cò được và sự dụng cần sa trong cac mục đich trị bệnh khi việc sử dụng được xem là chinh đáng và được bác sĩ điều trị  xác nhận là cần thiết cho  bệnh nhân trong các trường hợp bệnh như ung thư, ăn mât ngon, AIDS, đau nhức kinh niên, co thắt bắp thịt, glaucoma, sưng xương khớp, đau đầu loại migraine..' Đạo luật Califormia được xem là tương đối 'thoải mái' cho phép dùng cần sa để trị liệu nhiều loại bệnh và không đòi hỏi các bằng chứng về sự hữu hiệu của cần sa trong cac bệnh liệt kê. Đạo luật còn có một số điểm cần ghi nhận như : sau khi được Bác sĩ (MD hay DO hành nghề trong Tiểu bang) khuyến cáo nên dùng cân sa, bệnh nhân cần nộp đơn xin cấp một Thẻ Căn cước dùng Cần sa để chữa bệnh (Medical Marijuana Identification Card), cho phép sở hữu, trồng, chuyên chở và sử dụng cần sa để trị bệnh. Tuy chương trình cấp ID không có tinh cách bắt buộc nhưng cho đến 2010 đã có trên 40 ngàn thẻ được cấp phát. Trươc khi cho người bệnh dùng cần sa, BS (MD hay DO) cần phải khám bệnh và ghi kết quả chẩn đoán, xác nhận bệnh trạng phải cần đến cần sa khi trị liệu. Người dùng cần sa phải là cư dân California và người bệnh co thể nộp đơn ghi danh cho 'người chăm sóc trực tiếp cho mình'. Người này có thể là người lo cho bệnh nhân về  ăn, ở, sức khỏe, an ninh..và co thể là một cá nhân độc lập, hay nhân viên của một nhà thương, y viện hay tổ chức cung cấp dịch vụ y tế tại gia..
Việc 'hợp pháp hoá' sử dụng cần sa đã..tạo ra một công việc liên hệ. Sự xuất hiện của các Phòng cấp thuốc (Dispensaries) bán cần sa công khai cho công chúng, tại một số Phòng còn có sẵn BS đễ giúp bệnh nhân xin cấp ID..Hiện nay quanh vùng Los Angeles có đến trên 1000 Dispensaries.. có nơi còn tập trung nhiều hơn là hệ thống cà phê Starbucks..
Trường hợp Oregon :
 Tại Oregon, việc cho phép người bệnh tự trồng cần sa, tuy giới hạn từ 3-5 cây nhưng cũng gây ra một số vấn đế pháp lý đi kèm theo. Một cư dân Oregon đã tự thiết lập một hệ thống..phòng vệ bao gồm, hầm chông, bẫy sụp.. rào điện..để bảo vệ các cây của Ông, nhiều lần bị..kẻ gian lấy trộm mà Cảnh sát..không can thiệp..Cảnh sát tuy than phiền nhưng không thể bắt buộc tay trồng cần sa này..tháo bỏ hệ thống phòng vệ..
Các vấn đề luật pháp tiếp diễn :
Trong khi các Tiểu bang tiếp tục đưa ra những sắc luật để giúp người bệnh sở hữu cần sa theo nhu cầu điều trị thì trên thực tế các sắc luật này đều có những điểm trái nguợc với luật Liên bang về Ma túy (Luật LB giữ nguyên Cần sa trong Bảng I). Các nghịch điểm này đã đưa đến nhiều vụ kiện cáo và quan trọng nhất là một phán quyết của Tói cao Pháp viện vào năm 2005.
   Năm 2002, các nhân viên của Cơ quan DEA (Drug Enforcement Agency) và nhân viên công lực địa phương đã 'đột kích' vào tư gia của Bà Angel Raich tại California, tịch thu và phá hủy các cây cần sa Bà trồng theo điều luật California's Compassionate Use Act cho phép. Bà và một số người khác đã kiện Chính phủ để ngăn việc thi hành luật của CSA, viện dẩn nhiều điều khoản về Hiến pháp và nguyên tắc nhu cầu trị bệnh. Bà Raisch đang bị bướu trong óc (không thể dùng phẫu thuật để mổ), kinh phong, hội chứng mất cân và cho biết bà dùng thuốc dưới sự giám sát của BS. BS của bà chứng thực là bệnh  không thể chữa khỏi bằng các phương pháp y khoa 'chinh thống' và nếu không dùng cần sa, bà không chịu nổi sự đau và có thể bị chết. Tuy bị thất kiện ở các Tòa cấp thấp, nhưng Tòa Kháng án (US Court of Appeal) đã phán quyết là Luật Liên bang về điều hành thương mãi không được áp dụng trên việc cho phép dùng cần sa để trị bệnh trong luật Tiểu bang. và ghi thêm vụ kiện cho thấy có sự khác biệt giữa buôn bán ma túy và việc cho phép dùng cần sa trong mục đích trị liệu..Tuy nhiên Tối cao Pháp viện HK đã 'đảo ngược' phán quyết này theo tỷ lệ 6-3 cho rằng CSA có quyền thực thi luật pháp Liên bang dù áp dụng luật vào một trường hợp 'có những sự kiện rắc rối' như vụ án này..Với phán quyết này Tói cao Pháp viện hầu như đã 'vô hiệu hóa' mọi luật lệ tiểu bang về sử dụng cần sa..
Tháng 10 năm 2009, Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đã công bố một văn kiện nhằm ' làm rõ hơn và hướng dẫn cho các Công tố viên Liên bang tại những Tiểu bang có những điều luật cho phép sử dụng Cần sa để trị bệnh'. Văn kiện nhấn mạnh việc truy tố buôn bán ma túy trái phép, trong đó có Cần sa, vẫn là trọng điểm của Bộ, nhưng văn kiện cũng cho biết là việc ưu tiên không nhằm vào những người'thật sự, rỏ rệt' theo đúng các luật lệ tiểu bang cho phép dùng cần sa. Các điều khoản hướng dẫn này không nhằm đưa ra các luận cứ dùng chống đợ cho các vụ vi phạm luật pháp liên bang nhưng giúp các công tố viên trong việc điều tra và truy tố những vi phạm liên hệ. Trên thực tế Bộ Tư pháp HK đã cho thấy sẽ không thi hành luật liên bang trong các trường hợp luật tiểu bang về cần sa có khả năng bảo vệ cho bệnh nhân chống lại các nguy cơ bị truy tố..
Cần sa , cây công nghiệp:
   Cây cần sa được nhiều quôc gia trên thế giới trồng trong những đồn điền để dùng trong công nghiệp chế tạo nhiều vật dụng trong đời sống hàng ngày như vải, sợi, giấy..Cây được gọi là Hemp
   Chủng cannabis được trồng trong công nghiệp là Cannabis sativa var. sativa có đặc tính là tỷ lệ hoạt chất THC thường dưới 0.3 % trong khi đó các chủng cần sa, loại ma tùy có thể chứa từ 6 đến 20 % THC.. Cannabis sativa var. indica không cung cấp sợi đạt tiêu chuẩn công nghiệp.
  Hiện nay trên 30 quốc gia đang trồng và sản xuất cần sa chuyên dùng trong công nghiệp trong đó có Úc, Áo, Canada, Trung Hoa, Anh, Pháp, Nga và Tây ban Nha..
Từ những năm 1950s đến 1980s, Liên bang Soviet là nơi sản xuất nhiều cần sa công nghiệp nhất trên thế giới với khoảng trên 3000 cây số vuông, tập trung trung vùng Ukraine, Kursk và vùng biên giới với Ba Lan. Cũng từ 1931, Trung tâm Nghiên cứu về các chủng cần sa, cải thiện phẩm chất sợi và năng suất cây trồng, tỷ lệ THC trong cây, quan trọng nhất của thế gìới là Hemp Breeding Department của Institute of Bast Crops tại Ukraine.
Pháp là quốc gia sản xuất cần sa quan trọng nhất tại Âu châu với khoảng 8000 hecta nuôi trồng (Canada trồng 9725 hecta, năm 2004), Anh và Đức khai thác trở lại vào 1990s..
Lịch sử Hoa Kỳ có một số liên hệ ' đang ghi lại' với Cần sa :
Năm 1619, Thuộc địa Jamestown tại Virginia thông qua Điều luật đầu tiên về Hemp tại Tân Thế giới : Sẽ vi phạm luật nếu không trồng hemp lấy sợi làm buồm, dây thừng, vải may quần áo và những đồ vật gia dụng khác.
Năm 1645 người Puritans đưa hemp đến New England, kéo ra sợi và dệt thành vải.
Năm 1776. Thomas Jefferson một nhà trồng hemp, đã phác thảo Bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ trên giấy nháp làm bằng hemp..George Washington cũng trồng hemp và Ben Franklin là chủ nhân của một nhà máy xay chế tạo bột giấy từ hemp..
Từ 1890, công nghiệp hemp bị cạnh tranh mạnh do việc phát triển các loại máy thu hoạch bông gòn, làm hạ giá nhân công; đồng thời các sợi thiên nhiên khác được nhập vào Hoa Kỳ..
Năm 1937 Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Marihuana Tax Act, điều luật trên thực tế đã dẹp bỏ việc trồng cần sa công nghiệp tại Hoa Kỳ.
Năm 1941, Công ty Ford Motor đã đưa ra quan niệm mới về một loại xe làm bằng plastic, 70%  từ sợi do hemp cung cấp và 30% từ các chất nhựa kết dính.
Năm 1942, các sự vận chuyển tơ sợi từ Phillippines về hoa Kỳ bị gián đoạn do Thế chiến 2. Bộ Canh nông HK đã phải ký hợp đồng với War Hemp Industries Inc. để sản xuất sợi và hạt hemp cho nhu cầu chiến tranh. Từ 1945, các giao thương toàn cầu được tái lập đưa đến tơ sợi nhập vào Mỹ dễ dàng nên việc trồng hemp suy giảm.
Năm 1957, các nông trại Wisconsin thu hoạch mùa hemp cuối cùng trồng tại Hoa Kỳ..
Mãi đến 50 năm sau, phong trào trồng cần sa công nghiệp tại Hoa Kỳ mới bắt đầu khởi phát trở lại. Một số Tiểu bang đã có những luật cho phép trồng cần sa công nghiệp. North Dakota là tiểu bang đầu tiên ban hành luật lệ và các thủ tục cấp giấy phép trồng, tuy nhiên vẩn chưa được sự đồng ý của DEA và chờ phán quyết của Tòa Án Liên bang. Oregon có luật về trồng cần sa công nghiệp từ tháng 8 năm 2009.
Ứng dụng của Cần sa trong công nghiệp :
  Trong công nghiệp, cần sa được sử dụng khá rộng rãi, nhất là trong việc chế tạo những sợi giây để cột, buộc với những độ căng thay đổi, sợi để dệt thành vải may quần áo.. Tuy có thể dùng hoàn toàn100 % sợi từ cần sa, nhưng trong kỹ nghệ may mặc thường có sự pha trộn với các sợi hữu cơ khác như sợi gai, bông gòn hay tơ lụa. Vải để may thường pha trộn theo tỷ lệ 55% sợi cần sa với 45% sợi từ bông gòn..
   Sợi tách từ thân cần sa được xem là phần có giá trị nhất của cây. Sợi thường được gọi là bast và đây là phần sợi mọc ở lớp ngoài của thân gỗ bên trong cọng thân cần sa, và ngay bên dưới lớp vỏ. Các sợi bast đã tạo độ bền dẻo của thân cần sa. Sợi này có thể dài từ 0.9 đến 4.5 m dọc suốt chiều dài cũa thân. Tùy theo kỹ thuật tách sợi, sợi thiên nhiên có thể có màu trắng kem, nâu, xám nhạt và xanh lục..Tuy việc sử dụng sợi từ cần sa đã giảm rất nhiều từ 2 thế kỷ gần đây do các cuộc cách mạng kỹ thuật, nhưng sợi hemp vẫn được xem là bền chắc hơn sợi bông gòn và cây hemp trồng, phát triển nhanh hơn, cung cấp hơn 10 % sợi so với trồng bông gòn khi trồng trên cùng một khu đất. Vải dệt từ sợi hemp được dùng làm buồm cho tàu bè. Sợi hemp kết thành giây thừng, giây cột, dệt bao bố..
   Công nghiệp giấy dùng cần sa làm bột giấy. Người Trung Hoa có lẽ đã dùng cần sa làm giấy từ thời Đông Hán. Hiện nay sợi hemp được pha trộn với nhiều loại sợi khác đễ làm bột giấy. Sản lượng bột giấy từ hemp còn tương đối thấp : khoảng 120 ngàn tấn trong năm 1991 và chỉ chiếm 0.05 % tổng sản lượng bột giấy sản xuất hàng năm, và gíá thành phẩm lại cao hơn bột từ gỗ đến 6 lần, chưa kể những vấn đề trang bị nhỏ và lỗi thời, thu hoạch và tồn trữ còn nhiều trở ngại.
   Trong công nghiệp vật liệu xây cất : sợi cần sa được dùng để giúp tăng sự bền chắc cho khối bêtông, và làm cấu tử trong nhiều hợp chất loại 'composite'..
Dầu ép từ hạt được dùng để bôi trơn máy móc và trong các kỹ nghệ sơn, sơn bóng..
Cần sa dùng làm thực phẩm
Hạt cần sa chứa đầy đủ mọi loại acid amin thiết yếu và những acid béo căn bản, cần thiết để giúp duy tri sức khỏe. Có thể ăn hạt sống, hay tán thành bột, để hạt mọc mầm (như giá đậu), làm sữa như kiểu sữa đậu nành, pha thành trà và làm bánh. Trên thị trường có nhiều sản phẩm từ cần sa, dưới nhiều dạng từ cereals đến bánh kẹp waffles đông lạnh, đậu hũ bằng hemp..
Tại các quốc gia trong Khối Liên hiệp Anh, Bộ Môi sinh và Canh nông (Depatment for Environment, Food and Rural Affairs = DEFRA) đã xem hemp như một cây hoàn toàn không thuộc loại cây thực phẩm, và cấp giấp phép cho trồng trong mục đích nêu trên. Tại Bắc Mỹ, hạt cần sa thực phẩm được bán tại các Cửa hàng 'thực phẩm chức năng' và qua cách gửi (mail order).
Vài số liệu về dinh dưỡng :
100 gram hạt hemp (cả vỏ) chứa :
- Calories 567
- Chất đạm  30.6 g
- Carbohydrates  10.9 g
- Chất béo tổng cộng  47.2 g
  - bão hòa   5.2 g
  - chưa bão hòa đơn   5.8 g (monounsaturated)
  - chưa bão hòa đa 36.2 (polyunsaturated)
- Vitamins
   - A (Beta-carotene)  4 IU
   - B1 (Thiamine)   1 mg
   - B2 (Riboflavine)   1 mg
   - E9 IU
- Các khoáng chất :
   - Sodium  9 mg
   - Sắt 4.7 mg
   - Calcium 74 mg
   Tính theo trọng lượng thì trong hạt hemp có từ 30-35 % dầu béo, đây là một loại dầu béo ăn được chứa đến 80% acid béo căn bản EFA (Essential Fatty Acid) như linoleic acid, Omega-6 (LA, 55%), alpha-linoleic acid, Omega-3 (ALA 22%) và còn có gamma-linoleic acid, Omega-6 (GLA 1-4%)..Tỷ lệ giữa linoleic acid và alpha-linoleic acid trong dầu hạt hemp khá lý tưởng : chỉ cần dùng 1 thìa canh=15ml là đã đủ lượng EFA cần thiết cho mỗi ngày.
   Hạt hemp, cả vỏ chứa khoảng 25 % chất đạm, thuộc loại dễ tiêu hóa, trong đó 1/3 là edestin và 2/3 là albumin. Thành phần acid amin được xem là rất tuơng tư như các protein từ thịt, trứng và đậu nành.
  Tài liệu sử dụng :
Medical Marijuana : Therapeutic Uses and Legal Status (US Pharmacist  October 2010)
The Review of Natural Products (Facts and Comparisons)
PDR for Herbal Medicines.
Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, Tập 1 (Viện Dược liệu)
Oriental Materia Medica (Hong-Ỳen Hsu)
Medicinal Plants of India (S.K Jain)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Rụng tóc (alopecia) thường xảy ra trên da đầu, nhưng cũng có thể xảy ra ở bất kỳ nơi nào trên cơ thể. Rụng tóc là một tình trạng phổ biến và không phải là vấn đề đáng lo ngại. Ở Úc, khoảng một nửa đàn ông ở độ tuổi 50 thường có dấu hiệu hói đầu, và hơn 1/4 phụ nữ trong cùng độ tuổi cho biết tóc họ bị thưa đi. Thường thì vấn đề này là do di truyền. Nếu thấy mình đang bị rụng tóc và đang lo lắng về điều đó, quý vị nên đi khám hoặc hỏi ý kiến bác sĩ để được chẩn đoán trước khi thử bất kỳ phương pháp điều trị nào. Rất nhiều sản phẩm được quảng cáo là có khả năng đảo ngược tình trạng rụng tóc, nhưng lại có rất ít sản phẩm đã được kiểm nghiệm khoa học về hiệu quả.
Hàm răng của bệnh nhân có vẻ như được chăm sóc khá tốt, nhưng nha sĩ James Mancini, giám đốc lâm sàng của Trung Tâm Nha Khoa Meadville ở Pennsylvania, cảm thấy phần nướu có vấn đề. Tình cờ, Mancini có quen biết với bác sĩ của bệnh nhân đó nên đã liên lạc để chia sẻ sự lo ngại – và rồi họ ‘lần’ ra bệnh thật! Mancini cho biết: “Thực ra, Bob mắc bệnh ung thư bạch cầu (leukemia). Dù ông ấy không thấy mệt mỏi hay có các triệu chứng khác, nhưng vấn đề xuất hiện ở phần răng miệng. Khi bác sĩ của Bob biết được tình trạng, Bob đã được điều trị ngay lập tức.”
Thời nay, nhiều người thường bị đau cổ vai gáy, lại còn kèm theo cả đau đầu. Nỗi đau này có thể gây ra thêm nỗi đau khác, không chỉ về mặt vật lý mà còn về mặt tâm sinh lý. Xét về mặt sinh lý, ngày càng có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng những cơn đau ở cổ thường khiến cho người ta bị thêm chứng đau đầu. Một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí The Journal of Headache and Pain là nghiên cứu đầu tiên cung cấp những dấu hiệu khách quan về sự liên quan của cơ bắp với tình trạng đau nhức đầu.
Một nghiên cứu mới cho thấy thiếu ngủ không chỉ ảnh hưởng đến tâm trạng và hiệu suất làm việc trong ngày, mà còn có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2. Theo nghiên cứu được công bố trên tạp chí JAMA Network Open, so với những người ngủ từ 7 đến 8 tiếng mỗi ngày, những người ngủ ít hơn 6 tiếng/ngày có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 2 cao hơn khi về già.
Khi nói đến việc giữ cho xương khỏe mạnh, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến vitamin D, chất dinh dưỡng giúp cơ thể hấp thụ lượng canxi cần thiết để giúp cho bộ xương chắc khỏe. Nhưng dù rằng vitamin D đúng là một chất dinh dưỡng thiết yếu, trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy tầm quan trọng của các loại vitamin khác trong việc chống gãy xương (fractures) và bệnh loãng xương, hay bệnh xương xốp (osteoporosis).
Không thể nhìn thấy bằng mắt thường, không có mùi và cũng chẳng có vị, những lượng nhỏ chì (lead) hiện diện trong các vật dụng mà chúng ta sử dụng hàng ngày, trong nhà chúng ta ở, và cả trong nước chúng ta uống. Thậm chí, chì còn xuất hiện trong các bình nước tái sử dụng, như việc phát hiện ra chì trong đáy ly Stanley. Vụ việc đã làm dấy lên nhiều tranh cãi và khơi dậy sự chú ý của người tiêu dùng đối với một vấn đề đã tồn tại từ rất lâu.
Hôm cuối tháng Hai vừa qua, Tòa Tối cao của bang Alabama phán quyết rằng: “Phôi đông lạnh là trẻ em.” Tuyên án này tuy chỉ có uy lực theo Hiến pháp và luật pháp ở Alabama, tuy nhiên, sự bắt đầu này tạo ra tiền lệ cho tất cả những vụ án vế sau của tất cả các bang khác và kề cả hiến pháp Hoa Kỳ, ảnh hưởng đến thời kỳ cho phép phá thai. Nhiều người và nhiều cơ quan sẽ phải chịu trách nhiệm, sẽ bị trừng phạt nếu làm hỏng phôi thai, như một tội giết trẻ em. Phán quyết của Alabama, được công bố hôm thứ Sáu, bắt nguồn từ hai vụ kiện của ba nhóm cha mẹ đã trải qua thủ tục thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) để sinh con và sau đó chọn đông lạnh số phôi còn lại. Giáo sư Nicole Huberfeld của Trường Luật Đại học Boston cho biết, đó cũng là một quyết định có thể gây ảnh hưởng lan rộng đến việc sử dụng các phương pháp điều trị sinh sản như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Thử tưởng tượng rằng chỉ cần uống một viên thuốc là quý vị sẽ tràn trề năng lượng, da dẻ mịn màng, và tim mạch khỏe re? Các viễn cảnh hấp dẫn này vẫy gọi mãnh liệt mỗi khi chúng ta dạo quanh qua các quầy hàng bán các loại thực dược phẩm bổ dưỡng trong hiệu thuốc, từ các loại viên uống dầu cá (fish oil), bột collagen (collagen powder), kẹo bổ sung ma-giê và muôn hình vạn trạng các loại vitamin.
Hơn một thập niên từ sau cái chết bất ngờ của mẹ, Sehrish Sayani mắc chứng rối loạn tâm thần hậu chấn (PTSD). Suốt những năm đó, những cơn hoảng loạn dữ dội nhất đã giảm dần, nhưng các triệu chứng như nghi ngại thái quá (hypervigilance), trở nên đặc biệt nhạy cảm với một số yếu tố và những giấc ngủ chập chờn đã trở nên quen thuộc trong cuộc sống của cô.
Trong cuốn tiểu thuyết Chuyện Hai Thành Phố (A Tale of Two Cities) của Charles Dickens, được xuất bản năm 1859 và lấy bối cảnh thời Cách Mạng Pháp, có đoạn viết: “Đó là thời đại tốt đẹp nhất, cũng là thời đại tồi tệ nhất, đó là thời đại của sự khôn ngoan, cũng là thời đại của sự ngu xuẩn.” Đại dịch COVID-19 cũng là một thời đại như thế. Một mặt, khoa học đã cứu sống được nhiều người. Chưa đầy một năm sau khi phát hiện virus, Hoa Kỳ đã tạo ra và thử nghiệm vắc xin, rồi cho sản xuất, phân phối và triển khai tiêm chủng hàng loạt miễn phí cho người dân. Ước tính vắc xin COVID đã cứu được ít nhất 3.2 triệu người chỉ riêng ở Hoa Kỳ. Những thành tựu này tạo ra hy vọng về việc chúng ta có thể nhanh chóng ứng phó với đại dịch trong tương lai.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.