Hôm nay,  

Câu Chuyện Thầy Lang: Dược Phẩm Hết Hạn

7/25/200800:00:00(View: 6010)
“Chiều 28-12-2007, bé Dung được mẹ đưa đến bác sĩ khám do có triệu chứng sốt nhẹ và ho. Bác sĩ chẩn đoán bé bị "trúng nước" dẫn đến viêm phổi cấp và cho toa với bốn loại thuốc (gồm các loại kháng sinh, xirô ho, vitamin D3 và paracetamol dạng thuốc nước dùng cho trẻ em). Người mẹ cầm toa và mua tại nhà thuốc. Trong đó chai thuốc paracetamol dạng nước 15ml có dấu hiệu nắp chai đóng ten gỉ sét, vỏ hộp bị bung ra và nước thuốc có màu đen...

Sau khi uống thuốc, bé bị ói mửa, nôn, khó chịu la khóc. Kiểm tra lại hạn sử dụng, người mẹ phát hiện chai paracetamol đã quá hạn dùng năm tháng, ngày sản xuất là 26-7-2004 và hạn sử dụng đến ngày 25-7-2007. Bà đã phản ảnh sự việc với bác sĩ. Ông đề nghị chị đến nhà thuốc để được... đổi lại.”

Đó là bản tin ngắn về một trường hợp dùng thuốc xảy ra ở quê hương. Và chuyện này cũng thường thấy ở nước ngoài.

Nửa đêm bà Lan bị một cơn nhức đầu như búa bổ đánh thức dạy. Mở ngăn kéo lấy lọ thuốc Tylenol để uống thì thấy ghi ngày hết hạn là 19 tháng 4 năm 2005. Bà phân vân không biết có nên uống hay không, vì sợ thuốc quá hạn, có thể hư hao, uống vào thì “lợn lành chữa thành lợn què”.

Đây là thắc mắc của nhiều người về vấn đề “thuốc quá hạn”, chứ không chỉ riêng bà Lan và mẹ bé Dung.

Vì đâu mà có “Ngày Thuốc Hết Hạn”- Drug Expired Date- và ý nghĩa của ngày này là gì.

Xin cùng tìm hiểu.

Trên mỗi chai hộp đựng thuốc từ nhà sản xuất đưa ra, ở một góc, ta thấy ghi hai hàng chữ: Lô Hàng Số và Ngày thuốc Hết Hạn (Lot number và Expired date).

“Ngày Hết Hạn” do nhà bào chế thuốc đưa ra.

Từ năm 1945, tại Hoa Kỳ đã có đòi hỏi ghi ngày hết hạn đối với một vài loại thuốc như insulin, kháng sinh và chất sinh học.

Năm 1963 Cơ Quan Thực Dược Phẩm Hoa Kỳ (FDA) yêu cầu nhà bào chế, khi thấy cần, ghi ngày hết hạn trên nhãn để chứng minh dược phẩm hội đủ các tiêu chuẩn thích hợp về phẩm chất, cường độ và sự tinh khiết khi dùng.

Từ năm 1967, đơn xin sản xuất dược phẩm phải ghi ngày hết hạn. Nếu không ghi, phải chứng minh lý do.

Năm 1969, nhiều nhà sản xuất đề nghị ghi “Ngày Tối Đa” của thuốc (Maximum Dating), chẳng hạn như 5 năm, để có đủ thời gian phân phối, lưu hành và thay thế thuốc tồn kho.

 Tuy nhiên cơ quan FDA thấy việc ghi ngày tối đa không cần thiết vì nhiểu nhà bào chế đã đồng ý ghi ngày hết hạn. Hơn nữa, theo cơ quan, việc ghi ngày hết hạn tối đa không giúp ích cho người tiêu thụ và cơ quan cũng không ngăn cản nếu nhà bào chế nào muốn ghi 5 năm.

Tới tháng 9 năm 1979, Hoa Kỳ chính thức ban hành luật đòi hỏi các nhà bào chế dược phẩm phải ghi ngày hết hạn trên tất cả các dược phẩm sản xuất dù là bán theo toa thuốc của bác sĩ hoặc bán tự do không cần toa.

Theo định nghĩa của Cơ Quan Thực Dược Phẩm Hoa Kỳ, “Ngày hết hạn ghi trên hộp, chai hoặc nhãn hiệu của một dược phẩm là để chỉ thời hạn mà thuốc được tin tưởng là còn ở trong các đặc điểm đã được chấp thuận về thời hạn dùng (shelf-life), nếu cất giữ trong điều kiện đã được xác định. Sau thời hạn đó có thể là không được dùng”.

Đây là ngày do nhà bào chế tự chọn và có thể bảo đảm là thuốc còn công hiệu và an toàn, chứ không có nghĩa là thuốc công hiệu và an toàn trong thời gian bao lâu.

Theo nhà bào chế, các yếu tố quyết định ngày hết hạn của dược phẩm là:

1-Tình trạng ổn định của hoạt chất.

Thường thường, trong điều kiện cất giữ thích hợp, thuốc vẫn duy trì được trên 90% khả năng ổn định trong thời gian từ vài năm tới vài chục năm.

2-Phương pháp bào chế.

3-Cách thức cất giữ thuốc trong vật chứa.

4-Dạng thuốc (viên, dung dịch uống, chích, thuốc bôi thoa…)

5-Điều kiện chuyên chở, cất giữ và phân phối dược phẩm.

Vấn đề “Ngày Hết Hạn của Thuốc” đã được thảo luận rất sôi nổi.

Ngày 9 tháng 9 năm 2002, tác giả Richard Altschuler đưa ra một bài viết về vấn đề này. Bài viết được nhiều người tham khảo và đã được Giáo sư Tâm Bệnh Thomas A.M. Kramer, Đại học Chicago, trang trọng giới thiệu trên Psychopharmacology Today ngày 21 tháng 8 năm 2003.

Tác giả nêu ra mấy điểm như:

-Ngày hết hạn chỉ xác định thời điểm mà các nhà sản xuất bảo đảm sự hiệu nghiệm hoàn toàn và sự an toàn của thuốc, nếu thuốc được cất giữ trong vật chứa nguyên thủy với nhiệt độ thích hợp.

-Nhiều giới chức y khoa đồng lòng nói là dùng thuốc hết hạn an toàn.

-Nghiên cứu cho hay thuốc hết hạn có thể mất đi một chút hiệu nghiệm (potency) với thời gian, chẳng hạn như 5% hoặc dưới 50%”.

Tài liệu của Johns Hopkins Health Alert có ghi như sau: “Ngày hết hạn là một bảo đảm từ nhà sản xuất là dược phẩm sẽ còn ổn định hóa học và do đó duy trì được trọn vẹn công hiệu và an toàn trước ngày đó. Tuy nhiên, đa số dược phẩm duy trì được công hiệu sau ngày hết hạn, dù là thuốc bán tự do hoặc phải có toa bác sĩ, và thường thì không gây hại”.

 Family Health Guide của Đại học Y Khoa Harvard cũng phổ biến một bài viết của Medcap Psychopharmacology Today trong đó có ghi là: “Như vậy, ngày hết hạn thực ra không nói tới thời điểm mà dược phẩm không còn hiệu nghiệm hoặc đã trở thành không an toàn khi dùng. Nhiều nhà chuyên môn y tế cho hay thuốc quá hạn dù là vài năm đều an toàn khi dùng”.

Bài viết cũng nêu câu hỏi: “Ngày hết hạn có phải là một mánh khóe của nhà bào chế để mọi người phải bổ sung tủ thuốc gia đình và đều đặn bổ sung chương mục ngân hàng của giới sản xuất"”

Các giới chức y tế đều nói là an toàn khi dùng thuốc quá hạn, ngoại trừ trường hợp thuốc tetracycline bị hư hao và gây ra Hội chứng Fanconi với tồn thương thận do G.W. Frimpter công bố trên tập san của Hội Y Khoa Hoa Kỳ JAMA vào năm 1963.

Theo Dược sĩ Francis Flaherty, nguyên là nhân viên của FDA và là  Giám đốc cuộc xét nghiệm về các thuốc quá hạn của quân đội Hoa Kỳ : “Nhà bào chế đặt ngày hết hạn với mục đích tiếp thị (marketing) nhiều hơn là khoa học. Thực là bất lợi cho họ nếu thuốc vẫn nằm ì trên kệ cả chục năm. Họ muốn hàng hóa ra vào lưu thông.” Theo vị dược sĩ này, đây cũng là một mánh lới của nhà bào chế để bệnh nhân luôn luôn phải mua thuốc mới và tránh trách nhiệm khi thuốc để lâu mà giảm hiệu năng.

Các nhà bào chế thừa nhận là ngày hết hạn cũng có khía cạnh thương mại nhưng cũng giúp công chúng khỏi dùng nhầm hoặc cất giữ không đúng cách. Hơn nữa, mỗi vài năm lại có dược phẩm mới có tác dụng tốt hơn được dễ dàng đưa ra thay thế cho thuốc cũ.

Trên tập san y học British Medical Journal số ngày 4 tháng Giêng năm 2003, Bác sĩ Nhãn khoa John Sandford-Smith có ý kiến: “Thực tế ra, dược phẩm không “mãn phần –expired- mà chỉ có bệnh nhân mãn phần. Thuốc, như những người lính già, chỉ fade away giảm hiệu lực rất từ từ. Có lẽ nhẹ nhàng hơn nếu được ghi là “Sau XXX ngày sẽ không bảo đảm là thuốc còn 100% công hiệu, đặc biệt là khi cất giữ nơi nóng ẩm và nhiều ánh sáng”.

Nói tới các điều kiện cất giữ thuốc cho đúng cách, phải nhớ lại một bài viết đăng trên Wall Street Journal ngày 28 tháng 3 năm 2000 với tiêu đề: “Nhiều dược phẩm còn công hiệu nhiều năm sau ngày hết hạn”.

Tác giả Laurie P Cohen kể lại là vào năm 1985 không lực Hoa Kỳ có một kho thuốc gần quá hạn mà giá trị lên tới cả tỷ mỹ kim. Thuốc đều cất giữ trong kho với nhiệt độ được theo dõi hoặc nếu cần, trong tủ lạnh (chứ không trong buồng tắm).

Vì không muốn phí phạm vứt bỏ thuốc đó, họ nhờ cơ quan Thực Dược Phẩm Hoa Kỳ kiểm nghiệm hộ coi thuốc còn dùng được hay không.

 Kết quả cơ quan này thấy 90% số dược phẩm tồn kho như Cipro, penicillin, tetracycline, tagamet, valium… còn nguyên hiệu lực và còn an toàn cả 3 năm sau ngày quá hạn ghi trên chai thuốc. Theo cơ quan, ngày hết hạn do nhà bào chế ghi đều hết sức dè dặt, thận trọng, do đó rất nhiều thuốc trong kho này có thể có thời hạn dùng lâu hơn thời gian mà nhà bào chế đưa ra.

Không lực chỉ tốn có gần 4 triệu đô trả công cho FDA để làm công việc thử nghiệm mà tiết kiệm được 263 triệu đô từ năm 1993 tới 1998.

Sau sự việc này, Hội Y Khoa Hoa Kỳ (AMA) có yêu cầu kỹ nghệ dược phẩm xét lại vấn đề ngày hết hạn và sự ổn định của thuốc. Theo AMA, nếu FDA đã thử nghiệm và thấy nhiều thuốc còn tốt sau ngày hết hạn thì thuốc mà dân chúng cất giữ cẩn thận có lẽ cũng còn dùng được dù quá hạn.

Joel Davis, nguyên là nhân viên của FDA phụ trách về tuân thủ ngày hết hạn cho biết “đa số dược phẩm thoái hóa rất chậm và ta có thể dùng thuốc có sẵn ở nhà trong nhiều năm đặc biết là nếu cất trong tủ lạnh”.

Công ty Bayer ghi ngày hết hạn của thuốc aspirin là hai năm, nhưng theo họ, thuốc vẫn còn hiệu nghiệm 100% sau 4 năm.

 Theo ý kiến của nhiều nhà chuyên môn, sau ngày hết hạn thuốc không hoàn toàn vô dụng nhưng hoạt tính có thể giàm đôi chút. Dùng thuốc quá hạn có thể chỉ giảm một ít hiệu năng so với hiệu năng ghi trên nhãn thuốc. Đôi khi cũng gây vài khó khăn không lường trước. Vì thế ý kiến của nhiều người là không nên dùng thuốc quá hạn, nhất là đối với các bệnh trầm trọng.

Thường thường thời gian ổn định này là từ 2-3 năm kể từ khi sản xuất. Khi vật chứa nguyên thủy đã bị mở ra thì ngày hết hạn không còn hiệu lực, vì ảnh hưởng của môi trường, độ ẩm, hơi nóng…Dược phòng sẽ ghi trên chai thuốc giao cho người tiêu thụ một ngày gia hạn gọi là “beyond-use date”, thường là 1 năm kể từ lúc toa thuốc được thực hiện. Sau ngày này, thuốc không được dùng. Lý do là thuốc có thể bị thoái hóa sau khi thay đổi vật chứa và người bệnh mở đậy nắp thường xuyên khi dùng.

Sự thoái hóa của thuốc có thể do:

- Thủy phân khi thuốc tiếp xúc với nước.

- Sự oxy hóa là nguyên nhân chính của thoái hóa dược phẩm. Để tránh oxy hóa, thuốc cần được gói đậy kín.

- Ánh sáng cũng làm thuốc hư hao vì thế cần được cất giữ trong bình chứa cản quang.

Thuốc từ dược phòng về nhà nhiều khi không được cất giữ  trong điều kiện thuận lợi, mở nắp chai thuốc nhiều lần khiến cho thuốc ẩm mốc, dễ thoái hóa, biến chất.

Nhiều người chúng ta có thói quen là đặt tủ thuốc gia đình trong phòng tắm. Thực ra, đây là nơi cất giữ thuốc xấu nhất vì thường xuyên ẩm ướt rồi nhiệt độ trong phòng lên cao khi ta tắm bằng nước nóng.

 Nên cất giữ thuốc nơi khô mát, không có ánh sáng mặt trời như trong ngăn kéo tủ quần áo, tại phòng ngủ, phòng ăn, nhà bếp (nhưng đừng gần lò nấu), thuốc có thể an toàn công hiệu lâu hơn. Nhưng nhớ đậy kín nắp chai lọ.

Nhiệt độ có ảnh hưởng rất lớn lên sự thoái hóa của hoạt chất thuốc: Cứ mỗi tăng 10 độ thì sự thoái hóa lại tăng gấp đôi.

Ngoài ra:

-Nên loại bỏ thuốc đã đổi mầu, vụn bột, có mùi; thuốc nước vẩn đục, thuốc thoa đã cứng rắn.

- Nên loại bỏ các thuốc trị bệnh trầm trọng đã quá hạn vì công hiệu có thể giảm.

-Không để thuốc viên này lẫn lộn với thuốc viên khác vì có thể có tương tác giữa các hóa chất.

-Cất thuốc xa tầm tay trẻ em

-Vứt bỏ cục bông gòn trong chai thuốc vì bông gòn rất hút nước

-Các thuốc dễ hư như insulin hoặc vài loại dung dịch kháng sinh rất dễ thoái hóa, vì vậy nên dùng theo đúng hạn và để trong tủ lạnh.

Kết luận

Cơ Quan FDA, Hiệp hội Dược Hoa Kỳ, AMA và nhiều tổ chức y dược khác đều lưu ý là không nên dùng dược phẩm sau ngày hết hạn. Lý do là sự công hiệu và phẩm chất của thuốc không còn đáng tin cậy sau ngày này do đó có thể có đáp ứng trị liệu không đúng hoặc có các vấn đề an toàn khác.

Theo Robbe Lyon, một Giám Đốc của FDA: “Dược phẩm mất công hiệu khi quá ngày hết hạn do đó hiệu nghiệm và khả năng hòa tan của chúng có thể bị ảnh hường. Đối với bệnh nhân phụ thuộc vào thuốc để sống còn, như là thuốc bệnh tim, thuốc hết hạn có thể trở nên nguy hại vì chúng có thể không giữ được toàn vẹn khà năng trị liệu của thuốc”.

Nếu thuốc quá hạn vài năm và nếu bệnh của ta cần loại thuốc công hiệu 100% thì nên mua thuốc mới.

Và nếu có thắc mắc gì về ngày hết hạn, hãy hỏi ý kiến dược sĩ của mình. Dược sĩ là nguồn cung cấp thỏa đáng các dữ kiện về thuốc cho mọi người.

Texas- Hoa kỳ

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Khi nói đến việc giữ cho xương khỏe mạnh, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến vitamin D, chất dinh dưỡng giúp cơ thể hấp thụ lượng canxi cần thiết để giúp cho bộ xương chắc khỏe. Nhưng dù rằng vitamin D đúng là một chất dinh dưỡng thiết yếu, trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy tầm quan trọng của các loại vitamin khác trong việc chống gãy xương (fractures) và bệnh loãng xương, hay bệnh xương xốp (osteoporosis).
Không thể nhìn thấy bằng mắt thường, không có mùi và cũng chẳng có vị, những lượng nhỏ chì (lead) hiện diện trong các vật dụng mà chúng ta sử dụng hàng ngày, trong nhà chúng ta ở, và cả trong nước chúng ta uống. Thậm chí, chì còn xuất hiện trong các bình nước tái sử dụng, như việc phát hiện ra chì trong đáy ly Stanley. Vụ việc đã làm dấy lên nhiều tranh cãi và khơi dậy sự chú ý của người tiêu dùng đối với một vấn đề đã tồn tại từ rất lâu.
Hôm cuối tháng Hai vừa qua, Tòa Tối cao của bang Alabama phán quyết rằng: “Phôi đông lạnh là trẻ em.” Tuyên án này tuy chỉ có uy lực theo Hiến pháp và luật pháp ở Alabama, tuy nhiên, sự bắt đầu này tạo ra tiền lệ cho tất cả những vụ án vế sau của tất cả các bang khác và kề cả hiến pháp Hoa Kỳ, ảnh hưởng đến thời kỳ cho phép phá thai. Nhiều người và nhiều cơ quan sẽ phải chịu trách nhiệm, sẽ bị trừng phạt nếu làm hỏng phôi thai, như một tội giết trẻ em. Phán quyết của Alabama, được công bố hôm thứ Sáu, bắt nguồn từ hai vụ kiện của ba nhóm cha mẹ đã trải qua thủ tục thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) để sinh con và sau đó chọn đông lạnh số phôi còn lại. Giáo sư Nicole Huberfeld của Trường Luật Đại học Boston cho biết, đó cũng là một quyết định có thể gây ảnh hưởng lan rộng đến việc sử dụng các phương pháp điều trị sinh sản như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Thử tưởng tượng rằng chỉ cần uống một viên thuốc là quý vị sẽ tràn trề năng lượng, da dẻ mịn màng, và tim mạch khỏe re? Các viễn cảnh hấp dẫn này vẫy gọi mãnh liệt mỗi khi chúng ta dạo quanh qua các quầy hàng bán các loại thực dược phẩm bổ dưỡng trong hiệu thuốc, từ các loại viên uống dầu cá (fish oil), bột collagen (collagen powder), kẹo bổ sung ma-giê và muôn hình vạn trạng các loại vitamin.
Hơn một thập niên từ sau cái chết bất ngờ của mẹ, Sehrish Sayani mắc chứng rối loạn tâm thần hậu chấn (PTSD). Suốt những năm đó, những cơn hoảng loạn dữ dội nhất đã giảm dần, nhưng các triệu chứng như nghi ngại thái quá (hypervigilance), trở nên đặc biệt nhạy cảm với một số yếu tố và những giấc ngủ chập chờn đã trở nên quen thuộc trong cuộc sống của cô.
Trong cuốn tiểu thuyết Chuyện Hai Thành Phố (A Tale of Two Cities) của Charles Dickens, được xuất bản năm 1859 và lấy bối cảnh thời Cách Mạng Pháp, có đoạn viết: “Đó là thời đại tốt đẹp nhất, cũng là thời đại tồi tệ nhất, đó là thời đại của sự khôn ngoan, cũng là thời đại của sự ngu xuẩn.” Đại dịch COVID-19 cũng là một thời đại như thế. Một mặt, khoa học đã cứu sống được nhiều người. Chưa đầy một năm sau khi phát hiện virus, Hoa Kỳ đã tạo ra và thử nghiệm vắc xin, rồi cho sản xuất, phân phối và triển khai tiêm chủng hàng loạt miễn phí cho người dân. Ước tính vắc xin COVID đã cứu được ít nhất 3.2 triệu người chỉ riêng ở Hoa Kỳ. Những thành tựu này tạo ra hy vọng về việc chúng ta có thể nhanh chóng ứng phó với đại dịch trong tương lai.
Hơn một thập niên trước, Shria Kumar, bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa và là chuyên gia nghiên cứu tại Đại học Miami, bắt đầu chú ý đến một dấu hiệu đáng lo ngại. Có một số bệnh nhân ung thư dạ dày đến gặp bà ở độ tuổi rất trẻ, và rất nhiều người là phụ nữ. Khuynh hướng này vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay. Các khoa học gia đang nỗ lực tìm hiểu tại sao điều này lại xảy ra. Vào mùa xuân năm ngoái, họ đã xác nhận rằng hiện tượng này đang diễn ra ở Hoa Kỳ. Sau khi kiểm tra hệ thống các cơ sở dữ liệu chứa các thông tin chi tiết về các trường hợp ung thư ở nhiều tiểu bang trên toàn quốc, các nhà nghiên cứu nhận thấy ung thư dạ dày đang gia tăng nhanh hơn ở phụ nữ trẻ.
Wegovy, Ozempic và Mounjaro là các loại thuốc giảm cân và điều trị tiểu đường đã gây được tiếng vang lớn trong lĩnh vực tin tức y tế. Chúng nhắm vào các con đường điều tiết liên quan đến cả bệnh béo phì và tiểu đường, và được nhiều người coi là bước đột phá trong việc kiểm soát cân nặng, đường và huyết áp. Nhưng liệu những loại thuốc này có giải quyết được nguyên nhân gốc rễ của hội chứng chuyển hóa (metabolic disease) không? Điều gì đã thúc đẩy sự phát triển của chúng từ ban đầu?
Gần đây quý vị vừa bị cảm lạnh, cúm, RSV hoặc COVID, bệnh đã qua nhưng mãi vẫn không thể hết ho? Rất nhiều người bị giống như vậy. Triệu chứng này có thể tồn tại trong nhiều tuần sau khi cơ thể chúng ta đã loại bỏ vi-rút. Michael Shiloh, một bác sĩ chuyên nghiên cứu bệnh truyền nhiễm tại Trung tâm Y tế UT Southwestern cho biết những bệnh nhân bị ho thường kể là họ đã bị bịnh từ 8 tuần trước khi đến gặp ông. Ông nói: “Chúng tôi thực sự không thể phát hiện thấy vi rút gì ở những người này nữa nhưng họ vẫn bị ho.”
Bằng cách bắt chước cơ chế bảo vệ của cơ thể chống lại nhiễm trùng do vi khuẩn, một nhóm nghiên cứu ở Lund, Thụy điển hy vọng có thể ngăn chặn tình trạng viêm phát triển thành nhiễm trùng máu, theo đài truyền hình SVT, Thụy điển. Nhiễm trùng máu là tình trạng nhiễm trùng có thể đe dọa tính mạng. Thông thường nguyên nhân là do viêm phổi, nhiễm trùng đường tiểu hoặc nhiễm trùng vết thương. Nghiên cứu từ Lund cho thấy hiện nhiễm trùng huyết phổ biến hơn so với trước đây.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.