Hôm nay,  

Sổ Tay Thượng Dân – Đồng Bào Thượng & Đồng Bào Thiệt

28/11/202010:49:00(Xem: 3182)

blank    
“Dù ở trong hay ngoài nước, đối với đám người Kinh – nói chung – đồng bào Thượng có lẽ chưa bao giờ là đồng bào thiệt cả. Với tâm thức hẹp hòi này thì dân Việt sẽ còn gặp nhiều thảm kịch lớn về vấn đề chủng tộc, cho dù chế độ hiện hành không còn tồn tại.” K’ Tien

Vào cuối thế kỷ trước, tôi có viết cái truyện ngắn (dự tưởng) về chuyến bay hồi hương của một chàng thanh niên, đang hăm hở trở lại Việt Nam, ngay sau khi đất nước này vừa thoát khỏi hiểm hoạ cộng sản.

Tựa tuy đã quên nhưng tôi vẫn còn nhớ (loáng thoáng) đôi câu:

Phi cơ chao cánh, nhìn qua khung cửa sổ là một dòng sông yêu kiều lượn khúc, đang lấp lánh dưới ánh nắng chiều: Sông Sài Gòn. Tôi kêu khẽ và không ngăn được đôi dòng nước mắt!

Chiều qua, khi chiếc Airbus 320 của Vietnam Airlines nghiêng mình trên không phận Sài Gòn, tôi mới thực sự thấy lại hình ảnh của dòng sông (cũ) y như mình đã hình dung, mấy mươi năm trước. Chỉ khác có điều khác là tôi không còn khóc nữa. Tuổi già hạt lệ như sương.

Gã thanh niên năm xưa, nay, đã trở thành một công dân lão hạng mà đường về thì vẫn còn khoá kín. Xuống phi trường Tân Sơn Nhất, thay vì đi lấy hành lý như phần đông hành khách, tôi cùng vài người ngoại quốc rẽ qua lối khác – lối dành cho hành khách quá cảnh.

Dù đã biết rõ lộ trình như vậy nhưng tôi vẫn cảm thấy nặng lòng và hơi hụt hẫng. Tôi đã ghé qua rất nhiều phi trường, với tâm trạng trống không, chỉ để chờ chuyến bay kế tiếp. Thực khó mà tưởng tượng, lại có lúc, mình phải “quá cảnh” ngay trên mảnh đất quê hương.

Tôi lặng người nhìn lại Sài Gòn từ sân bay Tân Sơn Nhất. Tôi sinh ra ở thành phố này, và cũng bỏ đi biền biệt từ đây. Hơn ba mươi năm sau tôi mới có dịp trở về chốn cũ, bùi ngùi đứng ngó cố hương qua một khung cửa kính rồi (thở dài) đi tiếp.

Tôi chưa có lối về, đã đành; hàng triệu người dân Việt khác vẫn tiếp tục bỏ đi. Theo dữ liệu của Tổ Chức Di Dân Quốc Tế (IOM) “từ năm 1990 đến năm 2015 có hơn 2,5 triệu người Việt Nam di cư ra nước ngoài. Tính trung bình trong 26 năm, mỗi năm có khoảng gần 100 nghìn người Việt di cư.”

Sự kiện trên đã được đạo diễn Song Chi ghi lại qua một bài viết ngắn (“Dòng Người Ra Đi Chưa Bao Giờ Dừng Lại“) với ít nhiều cay đắng:

“Thực tế, kể từ sau khi chiến tranh VN kết thúc, người Việt bắt đầu bỏ nước ra đi, và trong suốt 40 năm qua, dù có khi ồ ạt, có khi lặng lẽ, nhưng dòng người ra đi chưa bao giờ dừng lại. ..

Nhưng có vẻ như càng ngày số người tính chuyện ra đi càng nhiều hơn, thành phần đa dạng hơn, tạo cảm giác đất nước như một con thuyền đang đắm!”

Trong số “thành phần đa dạng” này, công luận vẫn thường hay vẫn bỏ quên những người bản địa. Sau những biến động khốc liệt xẩy ra ở Tây Nguyên (20012004) và Điện Biên (2011), không ít sắc dân miền núi ở Việt Nam cũng buộc phải rời bỏ bảng làng. Họ thường phải trải qua những chuyến đi vô cùng gian lao mà điểm đến thì hoàn toàn vô định, hay… vô vọng.

blank
Gặp gỡ và cụng ly ở Bangkok. Ảnh: Nguyễn Xuân Kim 


Trong
những trang sổ tay trước, chúng tôi đã có dịp đề cập đến vài mảnh đời lưu lạc của đồng bào H’mong đến từ Mường Nhé. Những dòng chữ còn lại của S.T.T.D hôm nay xin được dành riêng cho những đồng bào Thượng đi từ Tây Nguyên mà chúng tôi đã có dịp tiếp chuyện – nhiều lần – ở ven đô Bangkok.

Sở dĩ họ chọn Bangkok là chỗ dừng chân vì nơi đây ngoài vòng ảnh hưởng của nhà nước CSVN nên an toàn hơn nhiều so với Phnom Penh. Thủ Đô nước Thái cũng phú túc hơn nên một di dân bất hợp pháp có thể kiếm sống, bằng cách này hay cách nọ, không mấy khó khăn.

Từ Bangkok, thông tín viên Anh Vũ (RFA) đã gửi đi loạt bài phóng sự truyền thanh (“Làn Sóng Người Ti Nạn Từ Việt Nam“) cặn kẽ. Xin ghi lại một vài đoạn ngắn để rộng đường sư luận:

Trong những năm 2001 đến 2007, trước hiện trạng đất canh tác dần dần bị rơi vào tay các đồn điền cao su của người Kinh di cư từ miền xuôi lên, cộng với sự cấm đoán ngặt nghèo của chính quyền đối với các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, hàng loạt các cuộc biểu tình của người Thượng Tây nguyên đã nổ ra để đòi trả lại đất đai bị thu hồi và đòi nới rộng quyền tự do tôn giáo.

Để đối phó với các cuộc biểu tình đông người, chính quyền VN đã tiến hành nhiều đợt đàn áp nhằm vào người Thượng ở Tây Nguyên, từ đó nhiều người Thượng Tây nguyên tìm đường trốn chạy sang Campuchia để tìm qui chế tỵ nạn...

Ông Y Heo KNuil Ly dân tộc Ê đê ở tỉnh Đaklac đã chạy sang tỵ nạn tại Thái Lan từ năm 2008 nói với chúng tôi:

“Từ trại tỵ nạn ở Campuchia chúng tôi phải chạy trốn sang Thái Lan vào năm 2008, lý do tôi phải bỏ trốn khỏi đất nước quê hương tôi một phần cũng vì vấn đề chính trị. Trước việc đất đai của cha ông chúng tôi đã bị chính quyền thu hết thì chúng tôi đã đi biểu tình để phản đối cái đó và yêu cầu chính phủ Hà nội phải tôn trọng quyền của người Thượng ở Tây nguyên. Một phần nữa họ đã ghép tôi tội hoạt động tôn giáo Tin lành và họ đã ghét bỏ tôi nên buộc tôi phải chạy sang Campuchia để tỵ nạn.”

Nói về những khó khăn của những người Thượng Tây nguyên tỵ nạn ở Thái Lan đã và đang gặp phải trong thời gian vừa qua, ông Y Thoat Knul bày tỏ:

“Vì mình không có giấy tờ nên phải đi làm chui thôi, làm phụ hồ, làm rửa xe, làm đủ các công việc. Mỗi ngày phải làm việc từ 10-14 tiếng đồng hồ, không có nghỉ, phải chấp nhận làm nô lệ thôi. Với cuộc sống bơ vơ hiện tại thì không biết tin vào ai, không biết phải làm gì và không biết mình sẽ rơi vào tay ai. Đó còn chưa kể đến chuyện ốm đau, bệnh tật và biết bao các thứ chuyện khác…”

Tình cảnh những người Thượng Tây nguyên đang tỵ nạn ở Thái Lan khó khăn là như vậy, song sự quan tâm của các tổ chức và cá nhân người Việt đối với họ còn ở mức hết sức khiêm tốn. Trong một tâm trạng buồn tủi, ông Y Thoat Knul nói về nguyện ước của ông và bà con người Thượng Tây nguyên đang tỵ nạn ở Thái Lan. Ông nói:

“Cuộc sống của chúng tôi rất mong manh, không biết sẽ đi đâu, về đâu khi mà Cao ủy LHQ đã bỏ rơi chúng tôi hoàn toàn. Chúng tôi bây giờ chỉ cầu mong tất cả cộng đồng người Việt ở Hải ngoại và các tổ chức hãy quan tâm đến sự sống của người Thượng tỵ nạn. Đây là lời nói chân thành từ đáy lòng.”

Như đã thưa, tôi đã có dịp cụng ly với qúi ông Y Heo KNuil Ly, Y Thoat Knul, cùng nhiều ông bà, và trẻ em khác nữa. Chúng tôi đều là những kẻ sinh trưởng ở Tây Nguyên, đều rất hảo rượu, và thời tiết Thái Lan thì đặc biệt thích hợp cho loại bia Singha ướp lạnh nên câu chuyện (bên bàn nhậu) luôn luôn rôm rả và rất “đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc”… cho đến khi mọi người đều quá chén.

Vui quá rồi cũng hóa buồn. Sau khi uống mềm môi những người bạn đồng ẩm của tôi cứ thường nhắc đi nhắc lại những câu nói rất chí tình (tương tự) như lời như ông Y Thoat Knul:

“Chúng tôi bây giờ chỉ cầu mong tất cả cộng đồng người Việt ở Hải ngoại và các tổ chức hãy quan tâm đến sự sống của người Thượng tỵ nạn. Đây là lời nói chân thành từ đáy lòng.”

May nhờ có rượu nên những người ngồi chung bàn không biết rằng “lời nói chân thành từ đáy lòng” của họ đã khiến tôi đỏ mặt. Tôi xấu hổ vì biết chắc rằng chưa hề bao giờ có bất cứ tổ chức nào bận tâm đến số phận đến những người Thượng đang sống vất vưởng ở Phnom Penh hay Bangkok. Dù ở trong hay ngoài nước, đối với đám người Kinh – nói chung – đồng bào Thượng có lẽ chưa bao giờ là đồng bào thiệt cả. Với tâm thức hẹp hòi này thì dân Việt sẽ còn gặp nhiều thảm kịch lớn về vấn đề chủng tộc, cho dù chế độ hiện hành không còn tồn tại.

K’ Tien

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.