Học về Việt Sử trong chương trình của Trung Học Đệ Nhất Cấp, không học sinh nào không biết đến giai thoại Nguyễn Trãi tiễn biệt phụ thân là Nguyễn Phi Khanh tại Ải Nam Quan.
Đó là tháng 6, năm Đinh Hợi 1407.
Sau khi nhà Minh xua quân sang xâm chiếm nước Nam thì Trương Phụ sai Liễu Thăng lùng bắt thành phần trí thức, để ngăn ngừa sự kêu gọi dân chúng nổi dậy đòi lại quyền tự trị.
Trong số những người bị bắt để giải về Tầu, có Nguyễn Phi Khanh.
Theo sử liệu, Nguyễn Phi Khanh là một sỹ phu uyên bác, làu thông kinh sử nên được quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán mời về dạy kèm các cậu ấm cô chiêu trong gia tộc. Tình yêu đã nảy nở giữa thầy trò như một định mệnh sắp đặt để nghĩa phu phụ được chính thức chấp thuận.
Nguyễn Trãi là kết quả cuộc tình của đôi trai tài gái sắc Nguyễn Phi Khanh và Trần Thị Thái, ái nữ của quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán.
Nguyễn Trãi lẽo đẽo theo cha từ nơi giặc Minh bắt được Nguyễn Phi Khanh, suốt chặng đường dẫn giải về Kim Lăng. Khi đến Ải Nam Quan, giáp ranh giới Trung Hoa, Nguyễn Phi Khanh đã quyết liệt lớn tiếng, dạy con lần cuối rằng “Hãy quay về Nam, tìm đường phục hận, hơn là rỏ lệ nam nhi ủy mỵ trên đoạn đường thống hận hờn oan này!’
Nguyễn Trãi lấy bình nước trên vai, muốn dâng cha một ly nước tiễn biệt nhưng hỡi ơi, bình nước mang theo đã cạn!
Quá đau lòng, Nguyễn Trãi ngửa mặt nhìn trời, khóc nấc lên 3 tiếng, rồi quỳ xuống, cất tiếng bi thương:
“Khấn lạy Chư Phật mười phương, khấn lạy hồn thiêng sông núi, nếu nước Nam còn có cơ hội phục hồi tự chủ, xin ban cho con bình nước ngọt, từ đất Việt thân yêu, thay nước mắt tiễn biệt cha già!”
Khấn lạy xong, quá bi phẫn, Nguyễn Trãi dậm mạnh chân xuống đất. Mầu nhiệm thay, từ nền đất khô cứng đã phun lên nguồn nước mát trong. Nguyễn Trãi quỳ xụp xuống, tạ Ơn Trên rồi hứng nước thiêng đó, dâng cha.
Giòng suối thiêng liêng từ đấy được dân chúng địa phương gọi là Suối Phi Khanh.
Trải qua bao lần tranh chấp biên giới, các vị vua nước Nam quyết một mất một còn, giữ từng tất đất quê Cha đất Tổ; đặc biệt, hơn 18 lần dưới triều Lý, các vị vua nước Nam đã can trường phá Tống, bình Chiêm, không để một tấc đất phương Nam lọt vào tay phương Bắc.
Nguyễn Trãi đã tuân lời cha, gạt tình riêng, quay về lo việc khôi phục giang sơn, cùng người anh-hùng-áo-vải Lê Lợi và những người nhiệt tâm yêu nước. Năm 1416, họ thành lập Hội Thề Lũng Nhai, mưu việc đánh đuổi ngoại xâm. Sau hơn mười năm trường kỳ gian nguy lao khổ, quân dân nước Nam đã giành lại độc lập cho xứ sở.
Mùa Xuân năm 1428 Nguyễn Trãi phụng mệnh Bình Định Vương Lê Lợi, biên soạn tuyên ngôn Bình Ngô Đại Cáo để dân chúng am tường.
Chu toàn việc này, Nguyễn Trãi được ban tước Quan Phục Hầu, là tước vị những bậc công thần.
Bình Ngô Đại Cáo là áng văn hào hùng, tuyệt tác, còn lưu truyền đến nay, mà hậu thế thán phục, xem như một thiên-cổ-hùng-văn.
Bài cáo được viết bằng chữ Hán, thể văn ngôn, hơn 140 câu, gồm 5 đoạn. Ngoài những phần xác định chủ quyền quốc gia, những khó khăn và kiên trì của bao năm kháng chiến, nội dung còn vạch rõ những tội ác tày trời của ngoại xâm, nhưng khi hành xử thì con dân nước Việt lại theo đạo thánh hiền “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn. Lấy chí nhân mà thay cường bạo.”
Một lời khuyên dạy đúng thời, đúng lúc của người cha. Sự thức tỉnh kịp thời, kịp lúc của người con, có thể góp phần chuyển hóa bóng đêm để mặt trời ló dạng.
Xin mượn hai câu đối của GS Lưu Trung Khảo khi hồi tưởng về Tình Phụ Tử, từ hơn 6 thế kỷ trước, để cùng nhau tâm niệm:
“Tận hiếu đương trung, khai quốc huân công truyền vạn đại,
Quá nhân phù nghĩa, hóa dân thịnh đức sấm thiên niên”
Tạm dịch:
“Đem hết chữ hiếu để làm chữ trung, công lao mở nước còn truyền đến vạn đời,
Làm quá điều nhân để giúp điều nghĩa, đức lớn hóa dân còn ăn sâu đến nghìn năm”
Huệ Trân
(Ngày tri ân Cha)