Đôi Ta
Chú đạp xích lô trưa Hè nghỉ nắng
Chân gác càng xe làm giấc tiêu dao
Con ruồi nhỏ đậu bàn tay hai ngón
Ba ngón kia pháo cối cướp năm nào
Nắng Sài Gòn thả từng tia lửa chói
Thèm vô cùng một bóng mát công viên
Và cứ thế , sau chuyến hàng bỏ mối
Ghé góc đường ..làm một giấc bình yên
Giấc ngủ ngắn ..chú mơ về dĩ vãng
Vài bóng hình đồng đội , chiến trường xưa
Những người chết và nghĩa trang quên lãng
Cỏ gai dày …tiếng ếch vọng đêm mưa
Ba tư năm chưa một lần tu bổ
Như oán thù chồng chất ở sau lưng
Hồn tử sĩ đâu đây theo tiếng gió
Mộ hoang tàn cỏ bít lối đi chung
Anh bộ đội thương binh ngồi vá vỏ
Cột đèn kia độc chiếm một sơn hà
Giọng trọ trẹ của quê hương ngoài nớ
Vùng Nghệ Thanh …ngao ngán bữa tương cà
Anh vá vỏ , khách giang hồ độc cước
Chống so le nạng gỗ quá chiều cao
Cố nhẫn nại bơm căng đầy chiếc vỏ
Một bàn chân…còn để lại Nam Lào
Nét cam chịu hằn lên vầng trán hẹp
Cả cuộc đời không có một ngày mai
Sau cuộc chiến …anh trở về thân phận
Một hồn ma bóng quế giữa ban ngày
Mồ hôi chảy xuống ống quần phe phẩy
Chiếc điếu cày còn giữ thuở đi B
Nầy anh bạn ! làm một bi tỉnh ngủ
Bánh thuốc ngon ngoài nớ mới mang về
Chú xích lô ngồi bên anh vá vỏ
Cũng gật gù làm một điếu tương giao
Họ hoà giãi bên lề đường góc phố
Ở dưới chân cao ốc …mấy mươi lầu
Hai thương binh từ hai đầu chiến tuyến
Cũng một phần thân thể hiến quê hương
Nước thanh bình hai mảnh đời cam phận
Thành một đôi ta …khắng khít bên đường
Hồ Thanh Nhã
Ở Việt Nam ,một thành phần dường như bị gạt ra bên lề xã hội sau năm 1975 , là những thương phế binh của chế độ Việt Nam Cộng Hòa cũ . Dù họ không bị đi học tập cải tạo như những sĩ quan , công chức cao cấp của chế độ cũ , nhưng họ lại bị phân biệt đối xử . Thậm chí họ cũng không được hưởng một chế độ đặc biệt nào dành cho công dân bị thương tật, từ chánh quyền mới . Họ là loại công dân hạng hai , bị bỏ rơi chẳng ai đoái hoài tới , Một phó thường dân không có chứng minh nhân dân , không có nhà cửa , hộ khẩu . Phận cóc làm sao kêu thấu trời xanh ?
Chánh quyền mới tuyên truyền trên báo , đài ,TV về chánh sách hòa giải dân tộc . Nhưng sau đó thì mọi việc lẳng lặng trôi đi theo sự nghi ngờ của người dân trong nước và cả hải ngoại . Những hoạt động vẻ vời của chánh quyền Hà Nội chỉ là cái khuôn sáo trống rổng , Họ kêu gọi toàn dân mỡ rộng vòng tay trong khi chánh quyền khoanh tay đứng nhìn lớp người cần được hòa giải là những thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa đang sống lăn lóc tận đáy xã hội trong tình trạng bị bỏ rơi , thái độ vô cảm của các cấp chánh quyền mọi nơi .Họ là những người thương tật ăn xin ở chợ Bà Chiểu , bán vé số từng ngỏ ngách ở Sài gòn , đạp xích lô bến xe miền Tây hoặc làm những nghề không tên với đồng lương không đủ sống ,trên mọi miền đất nước … Có người không nhà, ngủ gầm cầu , có người không có thẻ chứng minh nhân dân , không có hộ khẩu … nói sao cho hết những hoàn cảnh nảo lòng nầy . Trong một xã hội ,ai là người chịu trách nhiệm về đời sống người dân của địa phương mình ? Dỉ nhiên là chánh quyền sở tại , là Đảng , là nhà nước..Hơn bốn mươi năm rồi mà dấu vết của chiến tranh huynh đệ tương tàn vẫn còn đó , không dấu hiệu gì cải thiện hết . Nếu xem những cuộc quyên góp giúp đỡ Thương phế binh VNCH là một hành động hòa giải thì đây có lẽ là việc làm thuyết phục nhất của chánh quyền Hà Nội . Hòa giải đối với những người có cuộc sống tốt hơn đối với những người kém may mắn . Những người đã từng bỏ một phần thân thể trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn vừa qua . Đó không phải đơn thuần là một hành động từ thiện mà còn hơn thế nữa ! Nó nói lên tâm thức lá lành đùm lá rách và trong sâu thẳm thừa nhận công lao của họ đối với tổ quốc Việt Nam , không phân biệt bên thắng cuộc hay bên thua cuộc .
Phong trào vinh danh và giúp đở Thương phế binh VNCH đã được tổ chức nhiều năm nay , nhưng đời sống của gia đình họ cũng chưa khá hơn . Hiện nay có các cha ở Dòng Chúa cứu thế Kỳ Đồng đứng ra tổ chức quyên góp và giúp đở tinh thần , vật chất cũng làm dịu phần nào nổi đau thân xác và tâm hồn của anh em Thương phế binhVNCH . Nhưng chánh quyền mới phải có hành động gì khác hơn mới đúng . Sau đây là bài thơ Thủ trưỡng , một điển hình khác của tình bạn của hai người đã một thời đứng hai chiến tuyến trong cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn vừa qua . Xin mời đọc :
Thủ trưỡng
Anh làm thủ trưỡng Năm Mười Sáu ( 516 )
Cơ động lừng danh chủ lực Miền
Tôi dắc Chi đoàn qua Ấp Bắc
Vượt giòng sông cạn xích xe nghiêng
Mùa khô quần thảo bờ kinh Xáng
Qua Tết anh còn mỗi cánh tay
Anh khép cuộc đời chinh chiến cũ
Bên giòng Phụng Thớt hoả châu bay
Khi anh rời khỏi vùng an dưỡng
Là lúc tôi vô ngưởng cữa tù
Từ ấy giã từ luôn vũ khí
Kiếp tù bên mép vực thiên thu
Ra tù còn lại bàn tay trắng
Tôi đẫy xe đi bán xóm nghèo
Từng lít dầu hôi từng hẻm nhỏ
Nâng niu ngọn lửa bếp cơm chiều
Tôi bán dầu hôi quanh Ngã Sáu
Nhớ từng con hẻm bạn hàng quen
Năm năm lây lất bên hè phố
Nước đã thanh bình kiếp vẫn đen
Gặp anh quán cóc cà phê túi
Trái bắp chia từng những nỗi vui
Anh kể chuyện đời qua mấy đoạn
Bên chồng vé số kiếm cơm thôi
Bàn tay còn lại ôm chồng vé
Số phận cười cay cuộc đổi đời
Tôi cũng cháo cơm ngày đắp đổi
Từng đồng bạc vụn lít dầu hôi
Tôi gọi đùa anh là Thủ trưỡng
Anh cười chua chát mắt xa xăm
Cánh tay Thủ trưỡng không còn nữa
Và nửa đời sau cũng sắp tàn
Hai người hai cảnh đời xa lạ
Là đối phương nhau cũng một thời
Hết giặc chia nhau từng điếu thuốc
Thanh bình đâu phải mọi người vui !
Dáng anh thất thểu trong lòng hẻm
Len lỏi mòn chân mấy vĩa hè
Ngoài phố bao nhiêu đồng chí cũ
Thênh thang nhà rộng đổi thay xe
Anh –như chanh vắt không còn nước –
Vứt bỏ cho quen cuộc sống thừa
Anh muốn quay lưng cùng quá khứ
Không buồn nhắc lại chuyện ngày xưa
Ngày tôi đi Mỹ anh đưa tiễn
Cũng ấm lòng qua kiếp bụi đời
Tôi nắm bàn tay còn lại đó
Cũng buồn thân thế trắng như vôi …
Hồ Thanh Nhã