Hôm nay,  

Biển Đông và những con số

05/05/201916:53:00(Xem: 5796)

Biển Đông và những con số

 

Hồ Thanh Nhã

 
blank

Sự kiện người dân Việt Nam vượt biển tìm tự do, sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, được coi như là một cuộc di dân lớn làm rúng động lương tâm nhân loại đồng thời cũng là một bi kịch của giống nòi, đau thương và đầy nước mắt.
 

Trong hành trình tang tóc đó, một số người may mắn thì được đến bến bờ tự do. Số còn lại hẩm hiu hơn lại vùi thây trong lòng biển cả hoặc gặp nhiều nghịch cảnh éo le như bị cướp, bị hảm hiếp, bắt cóc theo tàu hải tặc rồi sau đó chẳng ai biết số phận sẽ ra sao? Sau nầy nghe các đài phát thanh ở Mỹ  trong Các Mục : Tìm người thân thất lạc, mới thấy nảo lòng làm sao. Còn những người may mắn hơn, đến được các đảo, tạm trú một thời gian ít năm, chờ thanh lọc. Họ được một nước thứ ba nào đó tiếp nhận, thì hoan hỉ lên đường với 2 bàn tay trắng, tạo lập một cuộc sống mới, nhận nước chủ nhà là quê hương thứ hai:
 

Ra đi biết mặt trùng khơi

Biết trời Âu Á, biết tôi hãi hùng.  (Phạm Duy)
 

Theo tài liệu lưu trữ của Cao ủy tị nạn Liên Hiệp Quốc thì trong khoảng 20 năm từ 1975 đến 1995 thì có đến 796,310 người từ Việt Nam vượt biển đến được bến bờ tự do. Thế giới gọi họ là Thuyền Nhân (Boat People), vì họ ra khơi bằng những thuyền tàu nhỏ, không có khả năng đi biển. Thế mà họ vẫn đi, thử liều với số phận. Đúng là hai chữ Tự Do có cái giá quá đắt.

Và cũng theo số liệu của Indonesia thì từ năm 1975 đến 1996, trại tị nạn đảo Galang đã tiếp nhận hơn 250 ngàn thuyền nhân Việt Nam.

Vì  chuyện vượt biển trên những chiếc thuyền con đầy nguy hiểm, làm xúc động nhiều người trên thế giới, nên một  số các tổ chức thiện nguyện đã phát động phong trào cứu thuyền nhân trên biển. Gồm có: Hội Y Sĩ không biên giới với con tàu Ile de Lumiere của Bác sĩ Bernard  Kouchnee. Con tàu nầy sau đó dung làm tàu Bịnh viện, chữa trị cho 40 ngàn người Việt tị nạn ở đảo Pulau Bidong.

Ở Pháp, cuối thập niên 1970 xuất hiện ủy ban  : Một con tàu cho Việt Nam  (Un  bateau pour  le Viet Nam).

Cũng hưởng ứng lời kêu gọi đó, tổ chức thiện nguyện ở Đức cho ra khơi 3 con tàu mang tên là: Cap Anamur vớt  người tị  nạn biển Đông.

Ủy ban Báo nguy giúp người vươt biển do Tiến sĩ Nguyễn Hữu Xung làm chủ tịch.
 

Thuyền nhân tại các trại Tị nạn có số lượng như sau:

Malaysia:-254,495 người

Hồng Kong:- 195,833 người.

Indonesia: 121,708 người.

Thái Lan: 117,321 người.

Philippine: 51,722 người.

Syngapore: 32,457 người.

Ngoài ra có các nước khác ít hơn là: Nhật Bản:11,071 người –Macao: 7,128 người – Nam Hàn: 1348 người.

Cho Định cư: - Tổng cộng tính đến 1995, Quốc tế đã nhận cho thuyền nhân Việt Nam định  cư là:-754,800 người. Trong đó các nước sau đây đã tiếp nhận:

Hoa Kỳ :- 424,000 người.

Úc  -111,000 người.

Canada: -163,000 người.

Các nước Châu Âu thì ít hơn.

Sau đây xin mời quí vị thưởng thức bài thơ: Biển Đông.            

 

  Biển Đông

 

Người đi ra biển Đông

Trùng dương muôn lớp sóng

Chiếc thuyền sao bé bỏng

Chở bao niềm ước mong

 

Người vừa thoát cửa sông

Tàu biên phòng rượt đuổi

Tràng liên thanh đỏ chói

Chấm dứt đời long đong

 

Người đi về thiên thu

Tháng Ba mùa lặng gió

Biển dù không bão tố

Bỗng chốc dậy mây mù

 

Vừa thoát ách ngưu đầu

Gặp ngay loài mã diện

Chiếc thuyền con trên biển

Trăm oan hồn về đâu?

 

Con tàu lạ đâm ngang

Chơi vơi bờ sinh tử

Bên kia bầy thú dữ

Rực đỏ mắt hung tàn

 

Người chết trên mạn thuyền

Máu loang vùng biển tối

Trẻ thơ chưa biết nói

Vật vờ làn nước đen

 

Những bào thai hải tặc

Chín tháng trời cưu mang

Chén cơm chan nước mắt

Não nề miệng thế gian

 

Con thuyền trong đêm tối

Sóng lớn dậy trùng dương

Điên cuồng cơn bão tới

Rước người về thủy cung

 

Lời đồng dao đây đó

Câu sấm truyền lan xa

Bao giờ Minh chúa hiện?

Mười phần chết còn ba

 

Đêm nhìn sao Bắc đẩu

Đối chiếu hướng hải đồ

La bàn kim bất động

Mặt kính mờ nước mưa

 

Con thuyền không bánh lái

Sóng nước đùa nhấp nhô

Mười ngày đêm chịu đói

Thủy táng mồ trẻ thơ

 

Oan hồn từ muôn phương

Kết tụ vầng mây xám

Bao cuộc đời ảm đạm

Nằm dưới đáy trùng dương

 

Mênh mông bờ vô định

Nghiệp báo chín tầng sâu

Giống nòi còn nhận lãnh

Quả báo đến khi nào?

 

Người đi về biển Đông

Thấy chết từ trên bến

Ba phần trôi trên biển

Bảy phần cõi mông lung…

 

Trong tận cùng tuyệt vọng

Niệm hồng danh Quan âm

Ánh mắt mờ trông ngóng

Lời cầu kinh  âm thầm

 

Con thuyền vô khẳm nước

Tàu kéo về Bidong..

Thuyền nhân oà tiếng khóc

Thấy mái nhà Galang

 

Oan hồn trôi lênh đênh

Nhấp nhô đầu ngọn sóng

Nghĩa địa buồn không tên

Bờ quạnh hiu quên lãng…

 

Một hôm đoàn người về

Nén nhang bờ hải đảo

Lời cầu kinh siêu độ

Về thế giới bên kia

 

Hồn về từ chân mây

Hồn nương theo ngọn sóng

Hồn bay theo gió lộng

Về chứng giám hôm nay…

 

Lời cầu kinh giải oan

Lan xa đầu ngọn gió

Hồn nương ánh sương tan

Ngàn thu miền tịnh độ…

 

               Hồ Thanh Nhã

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
Từ 20 năm qua (2004-2024), vấn đề hợp tác giữa người Việt Nam ở nước ngoài và đảng CSVN không ngừng được thảo luận, nhưng “đoàn kết dân tộc” vẫn là chuyện xa vời. Nguyên nhân còn ngăn cách cơ bản và quan trọng nhất vì đảng Cộng sản không muốn từ bỏ độc quyền cai trị, và tiếp tục áp đặt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh “làm nền tảng xây dựng đất nước”...
Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa. Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.
Việt Nam và Trung Quốc đã ký 14 Văn kiện hợp tác an ninh Chính trị, Kinh tế-Thương mại và Văn hóa-Báo chí trong chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của Tổng Bí thư Tô Lâm từ ngày 18 đến 20/08/2024. Trong số này, Văn kiện kết nối và thiết lập 3 Tuyến đường sắt giữa hai nước được gọi là “anh em” đã giúp Trung Quốc liên thông ra Biển Đông và bành trướng thế lực kinh tế...
Tại Campuchia, kênh đào Phù Nam Techo, trị giá 1,7 tỷ USD sẽ kết nối Phnom Penh và Vịnh Thái Lan, tượng trưng cho niềm tự hào dân tộc, an ninh và kết nối thương mại quốc tế. Người ta có thể cảm thấy như thế qua lời tuyên bố của Thủ tướng Campuchia Hun Manet và của ông Hun Sen, trong cương vị cố vấn, người đã chuyển giao quyền lực từ cha sang con vào năm ngoái...
Danh từ được tác giả dùng trong bài này không phải là danh từ theo tự loại mà là một thuật ngữ của Việt Cộng. Thuật ngữ Việt Công hay là danh từ Việt Cộng là những thuật ngữ, những từ được dùng trong nước dưới chính quyền Cộng sản Việt Nam. Ở trong nước người ta không dùng từ “Việt Cộng” mặc dầu Việt Cộng chỉ có ý nghĩa là Cộng Sản Việt Nam chớ không có nghĩa gì khác. Phải nói rõ ràng và dài dòng như vậy để tránh hiểu lầm và hiểu sai. Những danh từ đề cập trong bài viết này đa số là những danh từ kinh tế, vì chủ đề của bài viết là kinh tế, phân tích những ván đề kinh tế, nhận định về kinh tế chớ không phải chính trị, mặc dầu kinh tế không thể tách rời khỏi chính trị, xuất phát từ chính trị và tác động trở lại đời sống của mỗi con người chúng ta.
“Tôi hơi chậm hiểu lại rất chóng quên nên dù đã lê lết qua hơi nhiều trường ốc (trong cũng như ngoài nước) nhưng trình độ học vấn và kiến thức cũng chả̉ tới đâu, vẫn chỉ ở mức làng nhàng. Nói tóm lại là thuộc loại “xoàng”! Ơ! “Xoàng” thì đã sao nhỉ? Cũng không đến nỗi trăng/sao gì đâu, nếu tôi biết điều (biết chuyện – biết thân – biết phận) hơn chút xíu. Khổ nỗi, tôi lại cứ tưởng là mình cũng thuộc loại đầu óc trung bình (hoặc chỉ dưới mức đó không xa lắm) nên ghi danh học – tùm lum/tùm la – đủ thứ phân khoa: Triết Lý, Tâm Lý, Xã Hội, Nhân Chủng …
Một bài viết ngay sau khi được bầu vào chức Tổng Bí thư đảng CSVN cho thấy ông Tô Lâm đã hiện nguyên hình một người giáo điều, bảo thủ và hoài nghi trong “hợp tác quốc tế” với các nước. Trước hết ông cáo giác: “Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.” Lời tố cáo này không mới vì chỉ “nói cho có” và “không trưng ra được bằng chứng cụ thể nào”, giống hệt như những người tiền nhiệm...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.