Hôm nay,  

Họa Sĩ Võ Đình và Cuộc Triển Lãm Bên Kia Bờ Tử Sinh

13/03/201900:21:00(Xem: 5881)

Họa Sĩ Võ Đình và Cuộc Triển Lãm

Bên Kia Bờ Tử Sinh

 

Phan Tấn Hải

 

Trong tương lai gần, nhà thơ Đỗ Quý Toàn sẽ tổ chức một cuộc triển lãm tại hội trường nhật báo Người Việt dài hai ngày – trong đó, sẽ trưng bày là toàn bộ tranh của họa sĩ Võ Đình (1933-2009) để lại và đang được gìn giữ bởi người vợ cuối đời là chị Trần Lai Hồng.

 
blank

Họa sĩ Võ Đình

 

Nhà văn Lê Thị Huệ từ San Jose đã cho biết như trên; khi được tin, tôi đã xin tới thăm chị Trần Lai Hồng tại nhà người anh của chị ở Huntington Beach, California. Chị Trần Lai Hồng nói chuyện và đi đứng còn chậm, vì vừa mới hồi phục từ một trận đột quỵ khi còn ở Florida, và sau đó đã dọn nhà từ Florida về Quận Cam, nơi nhà người anh ruột.

Nơi phòng khách giữa căn nhà Huntington Beach của người anh của họa sĩ vẽ lụa Trần Lai Hồng còn để nguyên kiện nhiều gói hàng gửi qua phi cơ, trong đó là những họa phẩm của họa sĩ Võ Đình, chỉ mới mở ra một vài tấm tranh. Như thế, ước lượng khoảng 30 tác phẩm hội họa của họa sĩ Võ Đình. Chị Trần Lai Hồng cho biết, bản thân chị cũng học vẽ từ họa sĩ Võ Đình, và chị cũng ưa vẽ mặt trăng như anh… Trong dịp này, chị cũng sẽ triển lãm một số tranh chị vẽ, trong đó người xem có thể nhìn thấy ảnh hưởng của phong thái Võ Đình.

Trong khi ngồi đối diện với chị Trần Lai Hồng, nghe chị nói với giọng Huế của nhiều thập niên về trước, trong một buổi chiều nắng tháng 3/2019, nhìn mái tóc nhiều màu trắng của chị, tôi nhớ tới một chi tiết rất tiền định do nhà văn Lê Thị Huệ kể lại trên trang Gio-o về những ngày đầu tình nhân của họa sĩ Võ Đình và chị Trần Lai Hồng, theo lời chị họ Trần, “Chị kể là hai người có tò te tí ngọ lúc Lai Hồng 13 tuổi và Võ Đình 15 tuổi, trước khi Võ Đình sang Paris du học…”

Nghĩa là, cô Lai Hồng và cậu Võ Đình chưa tới tuổi thành niên đã “tò te tí ngọ” -- chữ nhà văn Lê Thị Huệ dùng lạ quá, tôi không hiểu cụ thể bốn chữ này, có thể chỉ mới nắm tay, hay chỉ mới vuốt tóc, hay chỉ mới hôn môi? Trời ạ, mối tình bí hiểm tới mức không thể dùng chữ đơn giản để nói.

 
blank

Bà quả phụ Trần Lai Hồng và tấm tranh của Võ Đình, một cây cổ thụ rất trừu tượng

 

 

Nhà văn Lê Thị Huệ viết trong bài “Ba Vòng Trong Vườn Mộng Của Võ Đình Và Lai Hồng” trên gio-o tháng 7/2007, kể lại như sau:

Cuộc tình của ông và LaiHồng là cuộc tình tái hồi Kim Trọng và Thúy Kiều. Lúc trẻ hai người yêu nhau nhưng không thành. Khi già hai người đã qua bao nhiêu cuộc hôn nhân. Họ tìm về với nhau cuối đời. LaiHồng bỏ Seatle. Võ Đình bỏ Maryland. Hai người đi xây tổ ấm ở Florida.

Bên trong nhà sơn màu trắng. Sách qúi. Phòng thiền. Phòng vẽ. Phòng ngủ có cửa kính nhìn ra cây bàng, cây xoài, cây mai, cây hoè.

Võ Đình hay gọi: "Hồng Ơi"...”(ngưng trích)

Và bây giờ, họa sĩ Võ Đình đã lìa đời… để nơi này còn chị Trần Lai Hồng. Và sắp tới sẽ là một cuộc triển lãm rất là xúc động, có thể hiểu là cuộc triển lãm cuối cùng của họa sĩ Võ Đình.

 

 

Trong khi nói chuyện với chị Trần Lai Hồng, tôi nhớ lại một cảm xúc có từ nhiều thập niên trước, hồi tôi còn ở Virginia và thỉnh thoảng gặp họa sĩ Võ Đình, rằng tôi vẫn nhìn họa sĩ họ Võ như một ngọn núi, nghĩa là khi ngước nhìn lên, tôi cũng chỉ mới thấy một phần, một phía.

**

Một họa sĩ tài hoa, một nhà văn thơ mộng, một dịch giả uyên bác, một nhà thơ đầy những thắc mắc về sinh tử kiếp người... Đó là Võ Đình, một nghệ sĩ đa tài dị thường.

Chúng ta cứ ngỡ như các tài năng như thế chỉ có  trong tiểu thuyết, nhưng không, những người như thế vẫn từng hiện ra trong đời này. Cuộc đời của họ rất thực, và qua những cơ duyên, nhiều người chúng ta đã từng gặp, từng quen biết, từng nói chuyện thơ văn với họ. Võ Đình là một tài năng dị thường như thế, vẫn đi đứng nói cười trong cõi thế gian này, đôi khi bộc khởi những gì như tham sân si, nhưng thâm tâm vẫn hướng vọng về một cõi rất mực thanh bình và rất mực trong sáng.

Võ Đình nổi tiếng trọn đời như một họa sĩ, trong khi thơ của ông rất mực thơ mộng lại ít được nhắc tới, và chính trong thơ cũng đã hiển lộ rất nhiều cảm xúc trong hồn ông. Đó cũng là những dòng thơ xuất sắc rất hiếm gặp.

Thí dụ, khi chúng ta biết rằng họa sĩ Võ Đình ưa vẽ mực trên giấy hay mực trên các tấm panel, chúng ta sẽ thấy khác hơn, khi đọc kỹ bài thơ nhan đề "Dấu đen":

Dấu đen trên tuyết một mình

Ngõ xa lưng dặm, dáng hình bao la

Chim kêu một tiếng sa đoà

Tai còn âm vọng, nét nhoà mực đi

.

Tương tự, nếu chúng ta biết rằng ông khi còn là một thanh niên mới lớn tại Huế, khi chưa rời Việt Nam để du học, đã có một mối tình đơn sơ với một cô nữ sinh 13 tuổi -- về sau, cô Trần Lai Hồng nổi tiếng là nhà thiết kế áo dài và vẽ lụa -- bài thơ nhan đề "Thu" có thể mang nhiều ẩn ngữ khi gợi tới những mái ngói nội thành Huế và áo tím nữ sinh Đồng Khánh, và màu hồng trong ký ức: 

Uy nghi mái ngói dáng vàng thu

Tùng quan đà khép cánh mây ngàn

Bỗng dưng áo tím em đi tới

Má đỏ ta thờ nét nữ tu

.

Và rồi chúng ta sẽ ngậm ngùi khi nhìn thấy thời gian vô thường trôi qua, trong bài thơ nhan đề "Nàng Thu Phong" - trích:

Ngày đêm mây trắng ngủ trên ghềnh

Trời thở dài, đất cũng làm thinh

Lá rừng phong, lá không bay nữa

Lá rụng tơi bời, lối tử sinh.

.

Thơ mộng, lãng đãng. Tuy nhiên, Võ Đình không đơn giản và cũng không dễ tính, cả trong hội họa và văn chương.

Họa sĩ Trương Vũ, một người bạn thân của Võ Đình, trong bài "Tiếng Sóng" viết nhân kỷ niệm 7 năm ngày mất của họa sĩ Võ Đình (31/5/2009 – 31/5/2016), ghi nhận, trích:

"Võ Đình sinh năm 1933, tại Huế, rời quê hương rất sớm, vào lúc 17 tuổi, và sống luôn ở Pháp, rồi ở Mỹ. Anh chỉ về thăm Việt Nam vài lần, mỗi lần trong thời hạn rất ngắn. Rất giống hoàn cảnh của lớp trẻ Việt Nam thuộc thế hệ một rưỡi hay thứ hai của cộng đồng Việt hiện nay.

Văn của Võ Đình không dễ đọc, tranh của Võ Đình không dễ xem. Bởi luôn hàm chứa những phức tạp của đời sống, những độ sâu trong suy tưởng, và những rung động của con người. Đọc văn anh, xem tranh anh, hay ngồi nói chuyện với anh, chúng ta rất dễ thấy nơi con người thoạt nhìn có vẻ bình dị, ảnh hưởng sâu đậm của ba nền văn hoá Việt, Pháp, Mỹ, và biểu lộ những ảnh hưởng đó một cách tự nhiên, không mặc cảm, khi khen như khi chê. Anh thích nhìn con người hay xã hội trên khía cạnh văn hóa, và nhìn sự vật, cây cỏ ở cái đẹp mà tạo hóa mang lại, dù đó chỉ là một con nhái bén hay những thứ “rau cỏ hèn mọn”.

Anh đề cao tính sáng tạo, rất dị ứng với những cách nhìn hời hợt, những cách nhìn theo thói quen, những cách lặp đi lặp lại mà anh cho là phát sinh từ sự lười biếng trong suy nghĩ..." (ngưng trích)
 

Họa sĩ Đinh Cường trong bài "Kỷ niệm cùng Võ Đình" đăng trên VOA ngày 26/05/2010 ghi nhận về người nghệ sĩ họ Võ, với kỷ niệm ban đầu gặp nhau, trích:

"Kỷ niệm đầu tiên với anh là Tết Giáp Dần, 1974 anh về nước sau trên hai mươi năm xa cách. Ôn (thân sinh anh) đưa anh ra thăm chúng tôi ở ngôi nhà phía sau trường Cao đẳng Mỹ Thuật Huế, tôi đang dạy ở đó, và vì nhà tôi dạy cùng trường Nữ trung học Thành Nội với chị Võ thị Nga, em gái anh …Sau đó nhân mấy ngày Tết tôi rủ Trịnh công Sơn cùng ghé thăm anh, uống cùng nhau ly rượu mừng xuân, tình anh em văn nghệ thân thiết nhau rất đỗi tự nhiên. Anh có kể lại trong Trời Đất: “Năm 1974, sau trên hai thập niên lưu lạc, từ Huế sang Paris, từ New York sang San Francisco, tôi lại quay về Huế. Chỉ hai hôm sau Tết Giáp Dần, hai chàng trẻ đến thăm: Đinh Cường và Trịnh công Sơn. ĐC hỏi tôi có đem tranh về không. Tôi nói không. ĐC đề nghị tôi vẽ ngay một số tranh: Anh sắp có triển lãm, nếu tôi cùng trưng bày với anh càng vui. Tôi vẽ 14 bức tranh mực xạ trên giấy, đặt tên từ Huế I đến Huế XIV. Cuộc triển lãm diễn ra ở một phòng lớn của đại học Văn Khoa Huế. Sau đó chúng tôi “họp mặt” ở nhà Trịnh công Sơn. Và lần đầu tiên tôi gặp Lê thành Nhơn …Trước đó tôi từng gặp Lê thành Nhơn. Gặp tác phẩm, không gặp người. Sau buổi nói chuyện ở trường Mỹ Thuật, tôi cùng nhiều người bước ra sân. Không nhớ ai đã chỉ cho tôi xem tượng Phan bội Châu. Ở Huế, người ta gọi là cụ Phan, hay cụ Phan sào Nam. Cả bức tượng là một cái đầu người. Một cái đầu vĩ đại …Tôi sinh ở Huế, lớn lên ở Huế, từng nghe không biết bao nhiêu chuyện khí khái về “ông già Bến Ngự”.

Đêm ấy tôi đã được gặp tác giả chân dung cụ Phan. Và nhớ mãi.” Tôi cũng nhớ mãi anh đã vẽ tặng tôi bức “Tổ Chim Trên Bờ Biển” với lời ghi Tưởng niệm Phan sào Nam tiên sinh..."(ngưng trích)
 

Nhà bình luận văn học Nguyễn Mạnh Trinh trong bài viết "Tưởng niệm nghệ sĩ Võ Đình" trên VOA ngày 04/06/2013 đã ghi nhận về người họa sĩ tài danh, trích:

"Với Võ Đình nhà văn, cái cảm nhận đầu tiên từ những bài viết của ông là một không gian lãng đãng của một khí hậu văn chương tạo cảm giác man mác, có hiện thực và mơ mộng. Ông đi nhiều, sống ở nhiều nơi, nhiều đất nước nên kinh nghiệm đời phong phú đã thành vốn liếng để ông sử dụng trong thơ văn và hội họa. Truyện ngắn của ông, là những mảnh phác họa đời sống và hơn nữa, lẩn khuất những phần nội tâm sâu kín.

Phần đông những bài viết của Võ Đình ở thể đoản văn, gọi là tùy bút cũng đúng mà gọi là tản văn hoặc tiểu luận cũng không sai. Ông thường nhấn mạnh đến hai thể loại. Truyện và chuyện. Truyện là những sự kiện đã qua được viết ra có bố cục lớp lang và có cả những hư cấu nữa. Còn chuyện là nghĩa từ chuyện trò, chuyện vãn, là những chuyện bàn bạc về những đề tài có khi là từ cuộc sống, có khi là từ văn chương.

Dù là truyện hay chuyện, tất cả những đoản văn của Võ Đình đều phát xuất từ những kinh nghiệm riêng của những năm ăn nằm với nghệ thuật với sách vở. Thêm nữa, là tình quê hương của một người xa xứ quá lâu, nồng đượm trong từng câu văn từng nét bút."(ngưng trích)
 

Trong tình cảm riêng và với lòng kính trọng vô bờ đối với một nghệ sĩ tài danh, tôi đã viết trong bài "Để Nhớ Một Ngọn Núi — Họa Sĩ Võ Đình" đăng trên Gio-o năm 2018 với những suy nghĩ riêng tư, trích:

"Nhưng hình ảnh của Võ Đình khác hơn và là cái gì độc đáo, dị thường hơn. Nghĩa là, không đời thường. Ngay cả khi nói chuyện với anh Võ Đình, tôi vẫn thấy như dường anh đang đứng lơ lửng trên núi tuyết.

Thử nhắm mắt lại, hình dung về anh, tôi nhận ra trong trí tôi các hình ảnh gắn liền với Võ Đình: kính trắng, đôi mắt sáng đăm chiêu, tay cầm tẩu thuốc, những khoảng trời tuyết trắng, những rặng cây xanh. Và đặc biệt, là hoa sen và mặt trăng. Hoa sen thì dễ hiểu, vì Võ Đình có quan tâm nhiều về Phật giáo. Nhưng còn mặt trăng? Kể cả khi gặp anh ban ngày, giữa trưa, tự nhiên tôi vẫn nghĩ tới mặt trăng. Có thể vì Võ Đình thường vẽ trăng? Có lẽ, nhưng không hẳn. Bởi vì trong nhiều bức tranh trừu tượng, Võ Đình có khi vẽ như là mặt trời đang rọi sáng rất phức tạp...

...Nhìn kỹ, Võ Đình vẫn rất là trừu tượng Paris cho dù anh vẽ hoa sen và trăng. Và cho dù anh vẽ, hay viết, Võ Đình vẫn là một  chiếc ghe chở trăng, nơi mũi ghe là một khắc họa hoa sen để hướng về một nơi bình an bên bờ kia. Đối với tôi, họa sĩ Võ Đình là một ngọn núi để tôi ngước nhìn lên. Tôi đã khâm phục nét vẽ thơ mộng dị thường của anh, đã khâm phục trình độ tiếng Anh tuyệt vời của anh. Và tự biết mình, tôi vẫn luôn luôn nhìn anh Võ Đình như một ngọn núi. Nơi đó, một thời tôi có cơ duyên quen anh – một ngọn núi."(ngưng trích)

 
blank

Bà quả phụ Trần Lai Hồng và tấm tranh của bà, hình một mặt trăng như một ước mơ hạnh phúc.

 

Nhưng tuyệt vời sắc bén là nhận định của nhà phê bình văn học Thụy Khuê qua bài "Võ Đình, thân xác như một chất liệu nghệ thuật" như dường nhìn thấu suốt tim gan họa sĩ họ Võ, trích:

"Trải vách quế gió vàng hiu hắt

Võ Đình đi đi, lại lại, bứt rứt, bực bội, tìm cách "vẽ" Ôn Như Hầu, nhưng câu thơ hắc búa của Gia Thiều cứ trơ ra như một "ảo giác" không thể "vẽ" được. Võ xoay ngang, chém dọc, bổ đôi, chẻ ba lời thơ, bước vào trong, chạy ra ngoài, mắt nhìn trời, tay vạch đất... Chịu! Lầu bầu oán trách ông già "ôn dịch" cắc cớ trớ trêu! Ngang tàng kiêu bạc đến như "ta" mà không thể "vẽ" được cái quái thai "trải vách quế gió vàng hiu hắt", bèn khấu đầu bái sư phụ một lạy. Võ chịu.

Chịu không vẽ được thơ Hầu, nhưng Võ ngộ được hai điều: thơ và họa.

Khi thơ đã đạt đỉnh thượng thừa thì không vẽ được và khi vẽ đã đạt đến tuyệt nét thì không bút nào tả được. Vậy nên, nếu muốn đi từ thơ sang họa, Võ phải tìm cách khác: giao hoan. Và từ nay, mỗi tác phẩm của Võ, khi đạt, thường là cuộc giao hoan tuyệt vời giữa thơ và họa..." (ngưng trích)

 

Khoảng vài tuần lễ tới, là tròn 10 năm họa sĩ Võ Đình từ trần: Võ Đình qua đời tại nhà ở West Palm Beach, Florida, ngày 31 tháng 5, 2009

Sau đây là tiểu sử Võ Đình, do nhà báo Phan Thanh Tâm viết trong những ngày đầu tháng 6/2009, khi được tin họa sĩ tài hoa này ra đi.

Nhà văn/Họa sĩ Võ Đình, tên thật Võ Đình Mai, Pháp danh: Nguyên Chân. Theo trang nhà Gio-O, nhà văn họa sĩ Võ Đình sinh năm Qúi Dậu, 1933, tại Huế. Chánh quán huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Những năm 50 du học ở Lyon và Paris. Năm 1961, triển lãm hoạ phấm đầu đời ở New York City. Từ đó hơn 40 cuộc triển lãm cá nhân và vô số cuộc triển lãm tập thể ở Âu Châu, Á châu, Gia Nã Đại, và Hoa Kỳ.

Năm 1970, hai văn phẩm đầu tiên được xuất bản: The Jade Song (Chelsea House, New York) và The Toad Is the Emperor Uncle's (Doubleday&Co,. New York). Tất cả, hơn 40 tác phẩm: sáng tác, dịch thuật, minh họa. Công trình văn học nghệ thuật của Võ Đình được ghi nhận trong Nhân Vật Việt Nam (Sài gòn, 1974). Hai Mươi Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại, 1975 -1995 (Đại Nam, California, 1995), và những ấn bản hàng năm của Who's Who In American Art, Contemporary Authors, Prinworld, The New York Art Review... Năm 1975: Christopher Award, New York. Năm 1984: Literature Program Fellowship tu National Endowmentfor the Arts, Wahington, D.C.; Năm 1992: Bằng hữu bốn phương bày tranh và sách Võ Đình ở Montreal, Canada. Năm 2000: triển lãm ở Pháp, kỷ niệm 50 năm về trước đặt chân -dến Paris. Năm 2002:tác phẩm mới nhất, Huyệt Tuyết (Văn Nghệ, California, 2002).

Nhà văn mất đi để lại vợ Bà Quả phụ Võ Đình Mai, khuê danh Trần thị Lai Hồng. Ông, đã qua đời vì bệnh Progressive Supranuclear  Palay, một bệnh rất hiếm khiến ăn uống, nói năng, đi đứng trở nên yếu, dù trí óc vẫn còn sáng suốt .

  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một quan điểm lạc quan đang dấy lên trong hàng ngũ Lãnh đạo đảng CSVN khi bước vào năm 2024, nhưng thực tế tiềm ẩn những khó khăn chưa lường trước được...
Nếu Donald Trump giành lại được Nhà Trắng vào tháng 11, năm nay có thể đánh dấu một bước ngoặt đối với quyền lực của Mỹ. Cuối cùng, nỗi sợ hãi về tình trạng suy tàn đã khiến cho người Mỹ bận tâm kể từ thời thuộc địa sẽ được biện minh. Hầu hết người Mỹ tin rằng, Hoa Kỳ trong tình trạng suy tàn, Donald Trump tuyên bố rằng ông có thể “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”. Nhưng tiền đề của Trump đơn giản là sai, và các biện pháp trị liệu được ông đề xuất đặt ra mối đe dọa lớn nhất đối với nước Mỹ.
Đảng CSVN hay nói “Trí thức là “nguyên khí của quốc gia”, làm hưng thịnh đất nước, rạng rỡ dân tộc*; “Trí thức là vốn liếng quý báu của Dân tộc”; hay “Thanh niên là rường cột của nước nhà” , nhưng tại sao nhiều người vẫn ngại đứng vào hàng ngũ đảng? Lý do vì đảng chỉ muốn gom Trí thức và Thanh niên “vào chung một rọ để nắm tóc”...
Tây Bắc hay Tây Nguyên thì cũng chừng đó vấn đề thôi: đất đai, tôn giáo, chủng tộc… Cả ba đều bị nhũng nhiễu, lũng đoạn tới cùng, và bị áp chế dã man tàn bạo. Ở đâu giới quan chức cũng đều được dung dưỡng, bao che để tiếp tục lộng quyền (thay vì xét sử) nên bi kịch của Tây Nguyên (nói riêng) và Cao Nguyên (nói chung) e sẽ còn dài, nếu chế độ toàn trị hiện hành vẫn còn tồn tại...
Bữa rồi, nhà thơ Inra Sara tâm sự: “Non 30 năm sống đất Sài Gòn, tôi gặp vô số người được cho là thành công, thuộc nhiều ngành nghề, đủ lứa tuổi, thành phần. Lạ, nhìn sâu vào mắt họ, cứ ẩn hiện sự bất an, lo âu.” “Bất an” có lẽ không chỉ là tâm trạng của người Sài Gòn mà dường như là tâm cảm chung của toàn dân Việt – không phân biệt chủng tộc, giới tính hay giai cấp nào ráo trọi – nhất là những kẻ sắp từ giã cõi trần. Di Cảo của Chế Lan Viên và di bút (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của Nguyễn Khải, theo nhận xét của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, chỉ là những tác phẩm “cốt để xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng).”
Tập Cận Bình tin rằng lịch sử đang dịch chuyển theo hướng có lợi cho mình. Trong chuyến thăm Vladimir Putin tại Matxcơva vào tháng 3 năm ngoái, nhà lãnh đạo Trung Quốc nói với Tổng thống Nga rằng “Ngay lúc này, chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi chưa từng thấy trong 100 năm qua, và chúng ta đang cùng nhau thúc đẩy sự thay đổi ấy.”
Sau 20 năm chiêu dụ Kiều bào về giúp nước không thành công, đảng CSVN lại tung ta Dự án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” vào dịp Tết Nguyên Đán Giáp Thìn 2024. Đây là lần thứ tư, từ khi có Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004, một Quyết định nhằm mưu tìm đầu tư, hợp tác khoa học, kỹ thuật và tổ chức các Hội, Đoàn người Việt ở nước ngoài, đặt dưới quyền lãnh đạo của đảng CSVN được tung ra...
Khi số lượng di dân vượt biên bất hợp pháp qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico tăng cao kỷ lục, câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Làm thế nào mà Hoa Kỳ lại rơi vào tình trạng này, và Hoa Kỳ có thể học hỏi những gì từ cách các quốc gia khác ứng phó với các vấn đề an ninh biên giới và nhập cư. Chào đón công dân nước ngoài đến với đất nước của mình là một việc khá quan trọng để giúp cải thiện tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, nguồn cung ứng lao động và đa dạng văn hóa. Nhưng những di dân vào và ở lại Hoa Kỳ mà không có thị thực hoặc giấy tờ hợp lệ có thể gây ra nhiều vấn đề – cho chính bản thân họ và cho cả chính quyền địa phương bởi tình trạng quá tải không thể kịp thời giải quyết các trường hợp xin tị nạn tại tòa án nhập cư, hoặc cung cấp nơi ở tạm thời và các nhu cầu cơ bản khác. Mà tình trạng này hiện đang xảy ra ở rất nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Trên vai những pho tượng trắng trong vườn Lục Xâm Bảo, lá vàng đã bắt đầu rơi lất phất. Mùa Thu Paris thật lãng mạn. Henry Kissinger đi dạo quanh một hồ nhỏ ở ngoại ô gần Rambouillet. Nơi đây từng cặp tình nhân đang nắm tay nhau bên những cành cây la đà bóng hồ. Ông thấy lòng mình nao nao (melancholic) vì sắp tới phiên họp quan trọng nhất với ông Lê Đức Thọ.
Tôi nghe nhiều người tỏ ý bi quan về hiện cảnh cũng như tương lai (đen tối) của Việt Nam. Dân tộc nào, số phận đó. Một đất nước có những người viết sử và làm luật (cỡ) như ông Dương Trung Quốc thì… đen là phải!
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.