Hôm nay,  

TRƯỚC TRẬN HOÀNG SA

03/02/201901:15:00(Xem: 6010)

TRƯỚC TRẬN HOÀNG SA

 

                                                Trần Gia Phụng

 

Hoàng Sa (Paracel Islands) là một quần đảo gồm khoảng trên 100 đảo nhỏ, giữa kinh tuyến 111 và 113 độ Đông, và khoảng vĩ tuyến 15 đến 17 độ Bắc.  Quần đảo nầy gồm hai nhóm: nhóm phía tây là Nguyệt Thiềm (hay Trăng Khuyết, tiếng Anh là Crescent) và nhóm phía đông bắc là An Vĩnh (Amphitrite). 

blank

 

HOÀNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM

 

Trong lịch sử, nhiều tài liệu chứng tỏ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông thuộc chủ quyền Việt Nam.  Từ thời nhà Nguyễn, hàng năm, triều đình gởi thuyền ra Hoàng Sa thăm dò rồi trở về.  Năm 1835 vua Minh Mạng sai thuyền chở gạch đá, đến xây đền trên đảo Bàn Than (thuộc Hoàng Sa), dựng bia để ghi dấu, gieo hạt trồng cây.  Khi đào móng đắp nền, xây đền, các lính thợ đã đào được 2,000 cân đồng và gang sắt. (Quốc sử quán nhà Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, quyển 8, tỉnh Quảng Ngãi, Phạm Trọng Điềm dịch, Huế: Nxb. Thuận Hóa, tập 2, 1997, tr. 322-323.)

 

Từ đó, theo mùa gió hàng năm triều đình gởi thủy binh ra Hoàng Sa vào cuối tháng giêng (âm lịch) để thăm dò, bảo vệ, rồi trở về sáu tháng sau.  Dưới thời Pháp thuộc, Pháp bắt đầu đặt trạm quan thuế và tuần tra quần đảo từ năm 1920.  Sau đó Pháp lập trạm khí tượng năm 1933.  Trạm nầy thuộc quyền quản lý của sở Khí tượng ở Đà Nẵng.  Từ năm 1938, Pháp xây bia, dựng hải đăng và lập đội biên phòng bảo vệ Hoàng Sa.  Ngày 30-3-1938, vua Bảo Đại ban đạo dụ tách Hoàng Sa khỏi liên tỉnh Nam Ngãi và nhập vào tỉnh Thừa Thiên. (Mời xem copy văn bản nầy đính kèm.)

 

Trong thế chiến thứ hai, Nhật Bản chiếm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa,  Sau khi thất bại năm 1945, tại Hội nghị hòa bình San Francisco (Hoa Kỳ) ngày 6-9-1951, Nhật Bản tuyên bố từ bỏ chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.  Thủ tướng Quốc Gia Việt Nam là Trần Văn Hữu xác nhận tại diễn đàn hội nghị nầy rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam.  Không một nước nào lên tiếng phản đối.(Vào Google, chữ khóa “Hội nghị hòa bình San Francisco năm 1951”.)

 

Qua thời Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), tổng thống Ngô Đình Diệm ban hành sắc lệnh số 174 NV ngày 13-7-1961 đặt tên quần đảo Hoàng Sa là xã Định Hải, trực thuộc quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam, do một phái viên hành chánh đứng đầu. (Mời xem copy văn bản nầy đính kèm.)

 

Quyết định nhập Hoàng Sa vào tỉnh Quảng Nam có thể dựa vào vĩ độ của quần đảo Hoàng Sa tương đương với vĩ độ của tỉnh Quảng Nam và cũng có thể trạm khí tượng trên Hoàng Sa trực thuộc Sở Khí tượng Đà Nẵng.  Trong khi đó từ Cù Lao Ré hay đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) ra tới đảo Tri Tôn (cực tây của Hoàng Sa) là 123 hải lý.  Ngày 21-10-1969, thủ tướng Trần Thiện Khiêm ký nghị định số 709-BNV/HĐCP sáp nhập xã Định Hải vào xã Hòa Long, cũng thuộc quận Hòa Vang tỉnh Quảng Nam.

 

CỘNG SẢN VIỆT NAM GIAO HOÀNG SA CHO TRUNG CỘNG

 

Trong khi đó, từ 24-2 đến 29-4-1958, Liên Hiệp Quốc (LHQ) tổ chức hội nghị tại Gènève để bàn về luật biển.  Các nước hội viên tham dự hội nghị ký kết bốn quy ước về luật biển (United Nations Convention on Law of the Sea, viết tắt là UNCLOS):  1) Quy ước về hải phận và vùng tiếp giáp.  2) Quy ước về thềm lục địa.   3) Quy ước về hải phận quốc tế.  4) Quy ước về nghề đánh cá và bảo tồn tài nguyên sống ở hải phận quốc tế.  Riêng quy ước về hải phận và vùng tiếp giáp, các nước tham dự hội nghị có lập trường khác nhau về chiều rộng của hải phận, và không có lập trường nào hội đủ túc số 2/3 để thành luật. (http://untreaty.un.org/ilc/texts/instruments/english/conventions/8_1_1958_territorial_sea.pdf.)

 

Khi diễn ra hội nghị Genève về luật biển, Trung Cộng chưa gia nhập LHQ nên chưa được tham dự hội nghị nầy.  Ngày 4-9-1958, Trung Cộng đưa ra tuyên bố về lãnh hải, gồm có 4 điểm theo đó điểm 1 và điểm 4 mặc nhiên khẳng định rằng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về lãnh thổ Trung Cộng và gọi theo tên Trung Cộng là Xisha [Tây Sa tức Hoàng Sa] và Nansha [Nam Sa tức Trường Sa].

 

Điểm 1 và điểm 4 của bản tuyên bố Trung Cộng được dịch như sau: Điểm (1) “Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Quốc là 12 hải lý.  Điều lệ nầy áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa [Xisha tức Hoàng Sa], quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa [Nansha tức Trường Sa], và các đảo khác thuộc Trung Quốc”. Điễm (4) “Điều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc...”  (Bản dịch của Trung Tâm Dữ Kiện.  (trích Internet).  Quần đảo Tây Sa (Xisha) = Quần đảo Hoàng Sa = Paracel Islands.  Quần đảo Nam Sa (Nansha) = Quần đảo Trường Sa = Spratly Islands.  Penghu = Bành Hồ.  Tìm bản Anh ngữ, vào Google, chữ khóa: “Declaration of the Government of the Peoples’s Republic of the China on the Territorial Sea”.)

 

Trung Cộng tự cho rằng Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Cộng, chỉ dựa vào bản đồ do chính quyềnTưởng Giới Thạch nghiên cứu và tự vẽ năm 1934. (Báo China Daily của Trung Cộng ngày 22-7-2011 trang 9, đăng bài “Claim over Islands Legitimate” của Li Guoqiang” (Lý Quốc Cường).  Vì tài liệu của Trung Cộng do Liên Xô trình bày không đưa ra được bằng chứng lịch sử cụ thể, nên hội nghị San Francisco năm 1951 đã bác bỏ lập luận của Liên Xô đòi giao các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Cộng. 

 

Ngoài ra, tuy từ đảo Hải Nam (Trung Cộng) xuống tới Hoàng Sa là 140 hải lý, nhưng Trung Cộng nói rằng từ đảo Hải Nam xuống tới bãi đá ngầm (North Reef) của Hoàng Sa là 112 hải lý để chứng minh rằng Hoàng Sa gần Trung Cộng hơn Việt Nam.  Tuy nhiên, bãi đá ngầm dưới mặt nước biển không phải là đảo nên cách lý luận nầy không được quốc tế chấp nhận. (Vũ Hữu San, Địa lý Biển Đông, Westminster: 2007, tt. 150-151.)

 

Đáp lại công hàm ngang ngược trên đây của Trung Cộng, Phạm Văn Đồng, thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) tức Bắc Việt Nam (BVN), với sự đồng ý của chủ tịch BVN là Hồ Chí Minh và bộ Chính trị đảng Lao Động (LĐ), một tổ chức không có trong hiến pháp, nhưng thực tế cầm quyển tối cao ở BVN, ký công hàm ngày 14-9-1958, tán thành quyết định về lãnh hải của Trung Cộng. 

 

Phần chính của công hàm Phạm Văn Đồng như sau:  “Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc.Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa trên mặt bể.” (mời xem photocopy công hàm)

 

Tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Cộng có nghĩa là đảng Lao Động tức đảng CS tán thành điểm 1 và điểm 4 của bản tuyên bố Trung Cộng hay xác nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Cộng, hoàn toàn ngược lại với với sử sách xưa của Việt Nam về chủ quyền nước ta trên hai quần đảo nầy.  Không phải là Bắc Việt Nam thiếu người có học mà không biết lịch sử Việt Nam, nhưng đảng Lao Động cố tình nhường Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Cộng nhằm trả ơn (hay trả nợ) Trung Cộng đã viện trợc cho VNDCCH từ năm 1950 đến 1954, mà còn nhằm chuẩn bị xin tiếp viện để tấn công Việt Nam Cộng Hòa tức Nam Việt Nam. (Thật vậy, tháng 10-1959, nghĩa là một năm sau công hàm, Phạm Văn Đồng qua Bắc Kinh cầu viện Trung Cộng để tấn công NVN.  Tháng 11-1959, Trung Cộng gởi một phái đoàn sang BVN trong hai tháng, nghiên cứu tất cả những nhu cầu cần thiết của BVN.  Tháng 5-1960, lãnh đạo BVN và Trung Cộng hội họp liên tiếp nhiều lần ở Hà Nội và Bắc Kinh để thảo luận chiến lược tấn công NVN. (Qiang Zhai, China & the Vietnam Wars, 1950-1975, The University of Carolina Press, 2000, tt. 82-83.)  Có vay thì có trả, đó là lý do vì sao CSVN làm thinh khi TC đánh chiếm Hoàng Sa ngày 19-1-1974, mở thủy lộ trên biển Đông.

 

blank

TIỀM NĂNG HOÀNG SA

 

Trung Cộng mạo nhận Hoàng Sa là của Trung Cộng, có thể vì các lẽ:  1)  Trung Cộng muốn làm chủ vị trí chiến lược Hoàng Sa trên Biển Đông để tiến xuống Đông Nam Á và chế ngự thủy lộ từ eo biển Malacca, vòng lên phía bắc tại vùng nầy. 2) Lúc đó, Hoàng Sa thuộc VNCH, hoàn toàn đối địch với Trung Cộng.  Ngược lại, nếu VNDCCH chiến thắng VNCH, làm chủ Hoàng Sa, thì VNDCCH có thể sẽ giao Hoàng Sa cho Liên Xô, cũng là điều hoàn toàn bất lợi cho Trung Cộng.  3)  Trung Cộng muốn tìm kiếm tài nguyên dưới lòng Biển Đông trong khu vực nầy.  Đó là khí đốt và dầu hỏa.

 

Nguyên vào ngày 1-12-1970, chính phủ VNCH ban hành luật số 11/70 về việc tìm kiếm, khai thác dầu hỏa cùng những điều kiện về thuế khóa, lệ phí và hối đoái liên hệ. (Công báo VNCH 1970, tr. 8573.)  Sau đó, chính phủ ban hành sắc lệnh số 3-SL/KT ngày 7-1-1971 thiết lập tại Bộ Kinh tế một ủy ban mệnh danh là “Ủy ban quốc gia dầu hỏa. (CBVNCH 1971, tr. 642.)  Ủy ban QGDH phụ trách việc nghiên cứu vấn đề thềm lục địa (nghị định số 571-NĐ/KT ngày 2-6-1971).

(CBVNCH 1971, tr. 3848.) Cuối cùng nghị định số 249-BKT/VP/UBQGDH/NĐ ngày 9-6-1971 công bố ý định cấp quyền đặc nhượng tìm kiếm và khai thác dầu hỏa. (CBVNCH 1971 tr. 3857.)

 

Năm 1972, công ty Geological Service Inc (GSI) nghiên cứu khu vực trung và nam Hoàng Sa.  Tháng 6-1973, hai tổ hợp Anh Pháp là Roberto Research International Limited và Bureau d'Études Insdustrielles et de Coopération de l'Institut Français du Pétrole (BEICPIP) phối hợp làm bản báo cáo “Địa chất và Khai thác hydrocarbon ở ngoài khơi Nam Việt Nam”.  Lúc đó, VNCH bắt đầu tổ chức cho các công ty ngoại quốc đấu thầu.  Những công ty trúng thầu đã khoan nhiều giếng, và vào tháng 10-1973 cho biết tại thềm lục địa Việt Nam, tiềm năng dầu hỏa là có thật. (Trịnh Quốc Thiên, Những biến cố mất lãnh thổ - lãnh hải Việt Nam từ năm 939 đến 2002, VA: Nam Quan Ấn Quán, 2002, tt. 163-167.)

 

KẾT LUẬN

 

Trong lịch sử. quần đảo Hoàng Sa vốn thuộc Việt Nam, nhưng Trung Cộng muốn bành trướng, tìm đường xuống Đông Nam Á và tìm kiến tài nguyên thiên nhiên dưới lòng Biển Đông, nên nhân cơ hội LHQ đưa ra luật biển tại hội nghị Genève từ 24-2 đến 29-4-1958, Trung Cộng ngang ngược đưa ra tuyên bố ngày 4-91958, tự nhận Hoàng sa và Trường Sa là của Trung Cộng.  Thế mà cộng sản Việt Nam chà đạp lịch sử tổ tiên, công nhận hai quần đảo nầy là của Trung Cộng.

 

Tội phản quốc là tội lỗi bị lên án nặng nề nhứt trong lịch sử từ ngàn xưa cho đến ngày nay, chẳng những ở nước ta mà cả trên thế giới.

 

TRẦN GIA PHỤNG

(Toronto, 19-1-2019)

 

 

TÀI LIỆU ĐÍNH KÈM:

blank 
blank

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
Đến giữa tháng 3 năm nay, hầu hết chúng ta đều thấy rõ, Donald Trump sẽ là ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng Hòa và Joe Biden là ứng cử viên tổng thống của Democrat. Ngoại trừ vấn đề đột ngột về sức khỏe hoặc tử vong, có lẽ sẽ không có thay đổi ngôi vị của hai ứng cử viên này. Hai lão ông suýt soát tuổi đời, cả hai bộ não đang đà thối hóa, cả hai khả năng quyết định đều đáng nghi ngờ. Hoa Kỳ nổi tiếng là đất nước của những người trẻ, đang phải chọn lựa một trong hai lão ông làm người lãnh đạo, chẳng phải là điều thiếu phù hợp hay sao? Trong lẽ bình thường để bù đắp sức nặng của tuổi tác, con đường đua tranh vào Tòa Bạch Ốc, cần phải có hai vị ứng cử viên phó tổng thống trẻ tuổi, được đa số ủng hộ, vì cơ hội khá lớn phải thay thế tổng thống trong nhiệm kỳ có thể xảy ra. Hơn nữa, sẽ là ứng cử viên tổng thống sau khi lão ông hết thời hạn bốn năm. Vị trí và vai trò của nhân vật phó này sẽ vô cùng quan trọng trong lần tranh cử 2024.
Không phải “học” mà là bắt, là tóm đầu, là tống cổ vào nhà giam: khi cân bằng quyền lực ở Hà Nội xáo trộn với tiền chấn rung chuyển tận Amsterdam thì cái khẩu hiệu quen thuộc của Vladimir Lenin ngày nào cũng phải được cập nhật. Không còn “Học, học nữa, học mãi” mà, táo tợn hơn, hệ thống quyền lực đang giỡn mặt Lenin: “Bắt, bắt nữa, bắt mãi”.
Câu chuyện kể từ xa xưa, rất xa xưa, là từ thời đức Phật còn tại thế: Có một người Bà La Môn rất giầu có và rất quyền thế, ông thích đi săn bắn thú vật trong rừng hay chim muông trên trời. Một hôm đó, ông bắn được một con thiên nga to đẹp đang bay vi vút trong bầu trời cao xanh bát ngát thăm thẳm trên kia. Con thiên nga vô cùng đẹp bị trúng đạn, rơi xuống đất, đau đớn giẫy và chết. Ông liền chạy tới lượm thành quả của ông và xách xác con thiên nga lộng lẫy về cho gia nhân làm thịt, làm một bữa nhậu, có lẽ.
Dù đã từ trần từ lâu, Võ Văn Kiệt vẫn được người đời nhắc đến do một câu nói khá cận nhân tình: “Nhiều sự kiện khi nhắc lại, có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn”. Tôi vốn tính hiếu chiến (và hiếu thắng) nên lại tâm đắc với ông T.T này bởi một câu nói khác: “Chúng tôi tự hào đã đánh thắng ba đế quốc to”. Dù chỉ ngắn gọn thế thôi nhưng cũng đủ cho người nghe hiểu rằng Việt Nam là một cường quốc, chứ “không phải dạng vừa” đâu đấy!
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.