Hôm nay,  

Số Phận Chữ Nghĩa Trong Những Chế Độ Chuyên Chế

22/05/201700:01:00(Xem: 7112)

 SỐ PHẬN CHỮ NGHĨA TRONG NHỮNG CHẾ ĐỘ CHUYÊN CHẾ

 

            Chữ nghĩa là phương tiện độc đáo của loài người để biểu tỏ ý nghĩ tình cảm về những hiện tượng đời sống thiên nhiên và xã hội. Gọi là độc đáo, vì loài vật chỉ có thể dùng những dấu hiệu thân xác hay những tiếng kêu đơn điệu. Con chó chỉ biết vẫy đuôi hay sủa những tràng âm thanh đơn điệu. Con vẹt cao lắm cũng chỉ nhắc lại những tràng chữ mà không hiểu nghĩa.

 

            Gọi là để biểu tỏ, nghĩa là biểu tỏ cho ai, với ai. Con chó nhìn thấy chủ về thì vẫy đuôi mừng, sủa êm ái; nhìn thấy người lạ thì nhảy sồ ra sủa dữ dội. Một con người khi nói khi viết luôn luôn là nói viết với ai, vì ai. Nhưng khác với con vẹt chỉ nhắc lại một tràng chữ với bất cứ ai, con người phát biểu những lời nói khác nhau với những “ai” khác nhau. Như khi nhìn thấy bất cứ ai vào, con vẹt chỉ nói “chào ông”.

 

            Tuy nhiên, trong một chế độ chính trị chuyên chế, con người luôn luôn bị guồng máy cai trị giản lược thành một loài vẹt. Những cá nhân nào không muốn trở thành loài vẹt, nghĩa  là muốn biểu tỏ ý nghĩ và tình cảm riêng , sáng tạo, chân thực sẽ bị guồng máy nghiền nát.

Thông thường có ba hình thức chuyên chế : Quân chủ chuyên chế, Phát Xít, Độc Đảng chuyên chế.

             Trong lịch sử loài người có những cá nhân ưu việt mà chữ nghĩa của họ làm cả một guồng máy cai trị lo sợ.

 

            I/ Cổ Sử Trung Hoa

 

            A/ Thời Xuân Thu Chiến quốc ( 770 BC—221 BC)

           

(Sách tham khảo : 1-Sử Trung Quốc (STQ) ---Nguyễn Hiến Lê—1982, in lại 2006- Sài Gòn

                              2-Đông Châu Liệt Quốc Tân Biên (ĐCLQ)—Dịch Giả Mộng Bình Sơn—Hương Hoa xuất bản 1961 Sai Gòn.

                              3-Sử Ký Tư Mã Thiên (SKTMT)—Dịch Giả Giản Chi&Nguyễn Hiến Lê—1969 Sài Gòn)    

 

            Thời Tây Chu mở đầu bằng Võ Vương  đóng đô ở đất Phong miền Thiểm  Tây, chấm dứt với Chu U Vương năm 770 BC. Chu Bình Vương lên ngôi dời đô về Lạc Ấp vốn gọi là Đông Đô ở trung tâm Trung Hoa lập nên nhà Đông Chu kéo dài từ năm 770 BC cho đến năm 256 BC với ông vua cuồi cùng là Chu Noãn Vương.

          

Khoảng thời gian 550 năm đó là những cuộc chiến tranh liên miên giữa các chư hầu mà Thiên Tử nhà Chu hoàn toàn bất lực không can thiệp được, gọi là Đông Chu Liệt Quốc. Từ những cuộc chiến tranh đó nổi lên những nhân vật trong hàng vua, quan hay dân thường, biểu tượng cho văn minh nhân loại cũng như biểu tượng cho sự man rợ.

 

            Biểu tượng cho văn minh nhân loại cao nhất là Lão Tử, Khổng Tử, Mạnh tử, Mặc Tử…

Nhưng số này rất ít so với những biểu tượng của man rợ . Lấy một trường hợp điển hình là vua Ngô Hạp Lư. Hạp Lư đã giết vua Ngô Vương Liêu là em họ của mình để cướp ngôi, dùng Ngũ Viên và Tôn Vũ đánh thắng nước Sở. Em gái của Hạp Lư là Thắng Ngọc tự tử. Hạp Lư thương tiếc vô cùng, khóc hai ngày rồi mới chôn.  Hạp Lư lấy vàng bạc trong kho quá nửa để chôn theo

nàng. Hàng vạn dân chúng đứng xem bị Hạp Lư bắt chôn sống cùng với Thắng Ngọc ( ĐCLQ hồi thứ 75 trang 825).

 

            Quan Tướng quốc nước Tấn là Triệu Thuẫn dưới triều vua Tấn Linh Công. Tấn Linh Công ham mê tửu  sắc , nghe lời nịnh thần mưu giết Triệu Thuẫn. Cháu Triệu Thuẫn là Triệu Xuyên giết vua, nhưng quan thái sử Đổng Hồ viết : “Mùa thu, tháng bảy,năm Ất Sửu, Triệu Thuẫn giết vua Di Cao ở vườn đào”.

 

            Triệu Thuẫn coi bản thảo muốn Đổng Hồ sửa lại vì không phải ông phạm tội.

Đổng Hồ nói :”Đã là sử, bao giờ cũng mang tính chất thật tại đâu phải uốn nắn theo ý muốn của con người. Đầu tôi có thể rơi, nhưng đoạn sử không thể sửa đổi”---Triêu Thuẫn buồn rầu nói :”Thế mới biết quyền chép sử là một quyền tuyệt đối. Tiếc thay! Ta không làm tròn bổn phận để phải mang tiếng nghìn đời”  (ĐCLQ –Hồi thứ 51—trang 541).

 

            Quan Tướng quốc nước Tề là Thôi Chữ dưới triều vua Tề Trang Công. Tề Trang Công mê nàng Đường Khương là vợ Thôi Chữ, tìm kế thông dâm với nàng. Thôi Chữ biết được giết Tề Trang Công. Thôi Chữ ra lệnh cho Thái sử Bá phải chép là vua bị bệnh sốt rét mà chết. Nhưng Thái sử Bá chép :”Ngày Ất Hợi, tháng năm mùa hạ, Thôi Chữ giết vua Quang hiệu là Tề Trang Công”.

            Thôi Chữ nổi giận giết Thái Sử Bá. Hai người em của Thái Sử Bá là Trọng và Thúc tiếp tục chép như trên đều  bị giết. Đền người em út tên Quí cũng chép y như vậy. Thôi Chữ tức giận hỏi:”Ba cái đầu đã rơi mà ngươi không sợ sao?”. Quí đáp:”Chép sử mà chép sai là điều nhục, thà chết còn hơn.  Ngày xưa Triêu Xuyên giết vua, Triệu Thuẫn làm Tướng quốc mà phải mang tiếng giết vua. Đổng Hồ vẫn chép như vậy đâu có gì là lạ?Nếu cho việc giết vua là nhục sao còn có kẻ làm ?” ---Thôi Chữ thở dài bước ra. (ĐCLQ—Hồi thứ 65 trang 697).  

 

            Cả hai người, Triệu Thuẫn và Thôi Chữ, đều biểu tượng cho quyền lực chính trị tột cùng trong một nước, nhưng nhân cách Triệu Thuẫn  cao hơn Thôi Chữ nhiều. Tuy vậy Thôi Chữ vẫn

còn sợ sự thực, vẫn còn chút liêm sỉ,  không giết Thái Sử Quí và không thay thế bằng một sử nô . Nhưng cả bốn quan Thái Sử , chỉ cần viết một câu ngắn đã làm cho quyền lực chính trị e sợ , thì nhân cách của các vị ấy lại còn cao hơn bất cứ quyền lực nào mặc dù họ chỉ làm một chức quan nhỏ.

           Sự xen lẫn giữa văn minh và mọi rợ trong xã hội thời Đông Chu trên thực tế vẫn tồn tại trong suốt lịch sử xã hội loài người cho tới hiện đại . Nhưng cái độc đáo của thời Chiến Quốc (từ khoảng 400 BC đến 221 BC) là sự tự do tư tưởng và  ngôn luận với sự bộc phát của nhiều trường phái tư tưởng nghịch nhau : Khổng Tử, Mặc Tử, Dương Tử, Lão tử, Vệ Ưởng, Mạnh Tử, Trang Tử, Tuân Tử, Hàn Phi Tử…Các học giả đời Hán  gọi đó là thời “Bách Gia Tranh Minh”(Trăm Nhà Đua Tiếng).

           Nhưng ngay trong thời đó từ năm 388 BC đến 338 BC, “trăm nhà bị tắt tiếng” ở nước Tần dưới triều vua Tần Hiếu Công dùng chính sách Pháp trị tuyệt đối của tướng quốc Vệ Ưởng. Hơn một thế kỷ sau, trên toàn cõi Trung Hoa khi Tần Thủy Hoàng gồm thâu thiên hạ năm 221 BC cũng dùng hoc thuyết Pháp trị tuyệt đối của Hàn Phi Tử (281 BC-233 BC) qua tay tướng quốc Lý Tư (280 BC-208 BC). Chính sách làm tắt tiếng trăm nhà, chỉ còn duy nhất tiếng của giai cấp thống trị mà thôi, tái diễn hoài trong lịch sử loài người dưới những chế độ chuyên chế.

                                            

                        B/ Từ Tần Hiếu Công Với Vệ Ưởng (388 BC-338 BC) Tới Tần Thủy Hoàng Với Lý Tư (221 BC—210 BC)

 

            Vào thời Xuân Thu (770 –khoảng 400 BC) Tần Mục Công là một trong ngũ bá ( Tề, Tấn, Tống , Tần, Sở ) thay mặt Thiên Tử nhà Chu cai trị chư hầu. Sở dĩ Tần Mục Công lên được ngôi bá chủ vì trọng dụng nhân tài Bá Lý Hề thường gọi là Ngũ Cổ Đại Phu làm tướng quốc. Đầu đời Chiến Quốc, Tần Hiếu Công muốn noi gương Tần Mục Công bèn đăng bảng chiêu hiền. Vệ Ưởng người nước Vệ từ nhỏ đã ham thích đọc sách về thuật dùng pháp luật trị nước, thấy nước  Vệ nhỏ không thể thi thố tài năng được nên qua Tần yết kiến Tần Hiếu Công. Hai người nói chuyện trong ba ngày rất hợp ý nhau . Vua Tần theo sách lược của Vệ Ưởng phong cho làm tướng quốc thay vua thi hành biến pháp mới có tính cách cách mạng so với thời đó.

 

            1/ Về mặt tư tưởng :  Triệt bỏ tư tưởng nhân nghĩa, không coi trọng  nhân tình của   vương đạo, chủ trương duy lợi và sức mạnh quân sự của bá đạo để xâm chiếm , xóa bỏ các nước lân cận,  cấm lưu hành các sách của Khổng Mạnh, Lão và bách gia nói chung. Trong nước duy nhất chỉ có pháp lệnh từ trên ban xuống và hạ cấp chỉ có trách vụ thi hành không bàn cãi khen chê. “Các thư, kinh bị đốt hết” (STQ- trang 97).

 

            Dân khen chê pháp lệnh bị đầy ra biên ải. Quan khen chê bị truất làm thứ dân. Ngay cả Thế tử Tứ (sau này lên ngôi là Huệ Văn Vương) không theo tân lệnh cũng bị hài tội. Vệ Ưởng không trị tội Thế tử nhưng bắt hai ông thầy dậy chịu tội thay, một người bị cắt mũi, một người bị khắc chữ trên mặt rồi đổ mực lên  ( ĐCLQ Hồi 87—SKTMT Phần II, Mục 5-Liệt- Truyện-Thương Quân)

 

            2/ Về mặt chính trị : Triệt bỏ ưu quyền chính trị của giai cấp quí tộc . Các vương tôn công tử phạm pháp sẽ chịu hình phạt như thường dân. Ngược lại thường dân làm lợi cho nước, lập công giết giặc sẽ được thưởng bình đẳng. Vệ Ưởng thiết lập trung ương tập quyền , chia nước thành 41 huyện quản lý bởi những huyện lệnh chịu trách nhiệm với trung ương chứ không với các tôn thất.

 

            3/ Về mặt kinh tế : Sách lược của Vệ Ưởng là muốn xây dựng một đội quân hùng mạnh thì phải có nhiều lương thực nuôi quân; do đó áp dụng cải cách ruộng đất, cho phép dân tự do khai thác đất hoang , khi trồng trọt được sẽ được làm chủ và phải đóng thuế cho công quỹ mà không cho những quí tộc nữa. Chính sách này tạo nên một giai cấp phú nông mới xuất thân từ dân đen , kết hợp với bọn phú thương, cùng những quân nhân có nhiều công trạng tranh quyền với giai cấp quí tộc cũ càng ngày càng yếu đi. (STQ-Trang 96).

 

            4/ Về an ninh quốc nội : Làng xóm được chia thành từng năm nhà hay mười nhà (ngũ gia hay thập gia liên bảo) trách nhiệm hỗ tương trước pháp luật. Nhà nào chứa chấp kẻ gian mà không tố cáo thì cả năm nhà bị tội liên đới. Mỗi người dân phải có thẻ chứng minh lý lịch.  Các quán trọ không được chứa chấp người không có thẻ.

 

            5/ Về chính sách đối ngoại : Dùng quân đội mạnh xâm chiếm dần các nước yếu để mở rộng đất đai thu lợi.

 

            Trong mười năm thi hành biến pháp, nước Tần trở thành hùng mạnh được Thiên Tử nhà Châu là Châu Hiển Vương phong cho làm bá chủ chư hầu. Thế là Tần Hiếu công đạt được giấc mộng bá vương, và Vệ Ưởng đạt được giấc mộng công hầu. Nhưng ngay sau khi Tần Hiếu công chết , Thế tử Tứ lên ngôi tự xưng vương hiệu là Huệ Văn Vương (338 BC) và Vệ Ưởng chịu ngay hành động báo ứng, oan oan tương báo.   Hai quan thái phó thầy dậy của Thế tử xưa kia vẫn căm thù Vệ Ưởng, bây giờ cùng bọn quí tộc thất thế bao năm tâu tân vương truất quyền Vệ Ưởng. Vệ Ưởng chạy trốn nhưng không quán trọ nào , nhà nào dám chứa chấp vì không có thẻ chứng minh cá nhân. Cuối cùng bị quan dân bắt. Huệ Văn Vương xử cho ngựa phanh thây, lại giết hết cả nhà.

 

            Sử Ký Tư Mã Thiên ghi lại lời than của Vệ Ưởng : “Hỡi ơi, cái di hại của việc lập pháp đến như thế ư ?”(SKTMT-Phần II-Mục 5: Thương Quân). Làm tắt tiếng trăm nhà, cuối cùng bị trăm nhà phanh thây.

 

            Huệ Văn Vương giết Vệ Ưởng nhưng vẫn tiếp tục theo gương Tần Hiếu Công phát triển và củng cố ngôi bá chủ . Vua kế tiếp là Tần Vũ Vương  vào đất Châu cử đỉnh, đã tỏ ra  muốn thay thế nhà Châu luôn, cho đến Chiêu Tương Vương thì diệt hẳn nhà Châu với ông vua cuối cùng là Châu Noãn Vương vào năm 256 BC.  Vào thời kỳ này Tần là mạnh nhất trong số Thất Hùng: Yên, Tề, Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Tần.

 

            Chiêu Tương Vương chết, con  là Thái tử Lâm tước hiệu An Quốc Quân lên ngôi hiệu là Hiếu Văn Vương, có người con thứ là công tử Dị Nhân làm con tin bên nước Triệu. Ở nước Triệu có người lái buôn tên Lã Bất Vi đầu óc giảo hoạt tìm phương buôn món hàng có lời nhất là buôn vua. Nhìn biết Dị Nhân có quí tướng, Bất Vi  vung vàng bạc ra hối lộ cả hai triều đình Triệu và Tần đưa được Dị Nhân về nước làm Thái tử. Trước khi rời Triệu, Bất Vi  lập kế cho Dị Nhân lấy nàng Triệu Cơ , tiểu thiếp đã có thai hai tháng với mình, hy vọng sau này đứa bé sẽ làm vua nước Tần, tức là dòng họ Lã sẽ nắm giang sơn nhà Tần.  Triệu Cơ sanh con trai đặt tên là Chính mà Dị Nhân không biết đó là con của Bất Vi. Bất Vi đầu độc chết Hiếu Văn Vương để sớm đưa Dị Nhân lên ngôi là  Trang Tương Vương năm 245 BC. Ba năm sau 242 BC, Bất Vi lại đầu độc chết Trang Tương Vương, đưa Chính mới 13 tuổi lên ngôi gọi là Tần Vương Chính. Quyền chính hoàn toàn nằm trong tay Bất Vi,  nên tùy tiện ra vào cung cấm thông dâm với Triệu Cơ rồi gây ra loạn Lao Ái.

           

              Khi Tần Vương Chính trưởng thành, biết rõ mọi chuyện bèn đuổi Bất Vi ra khỏi kinh đô về một nơi hoang dã. Bất Vi bất mãn muốn tư thông với các nước làm phản. Vua Tần biết được bèn khiến cho Bất Vi tự uống thuốc độc chết. Như vậy là con giết cha. Trước khi tự vẫn, Bất Vi than : “Ta là con nhà lái buôn, đem mưu trí buôn vua bán chức làm cho dòng họ người tuyệt tự, trời nào lại dung ta ?”(ĐCLQ –Hồi thứ 105, trang 1199).   

 

             Cuộc kinh doanh mặt hàng “vua” của Bất Vi đã thành công đưa ông ta từ thân phận một anh lái buôn lên làm đến chức Thừa tướng, một địa vị “dưới một người trên vạn người”. Nhưng mộng làm Thái Thượng Hoàng tan vỡ,  kết thúc bằng một cái chết do chính bàn tay con trai của mình. Trong thời gian làm Thừa tướng, Bất Vi đã có công mở rộng đất đai cho nước Tần về phía đông bằng những cuộc ra quân chiếm nước nhà Châu, nhiều thành trì của nước Triệu và Ngụy. Về mặt văn học, Bất Vi tập hợp được nhiều học sĩ soạn ra bộ “Lã Thị Xuân Thu  gần như một bộ sử về tư tưởng, học thuật cuối thời Chiến Quốc” ( STQ-CHƯƠNG V-Trang 100).

              Bất Vi có phần nào coi trọng tư tưởng Khổng Mạnh. Nhưng chính điểm này lại trái với Tần Vương Chính có khuynh hướng như Tần Hiếu Công xưa kia không muốn dùng vương đạo.  

 Sau khi Bất Vi chết, Tần Vương Chính phong Lý Tư (280-208 BC) làm thượng khách, ưa chuộng tư tưởng pháp trị của Hàn Phi (281-233 BC ). Lý Tư và Hàn Phi là bạn đồng học thầy Tuân Tử (313-238 BC),  một triết gia có tư tưởng pháp trị đối nghịch với Khổng Mạnh. (STQ-Chương VI-Tư Tưởng Trung Hoa Thời Tiên Tần—từ trang 113—144).

 

              Vì tài học kém Hàn Phi và vì sợ vua Tần dùng Hàn Phi thay thế mình nên Lý Tư dùng lời gièm pha khiến vua Tần giết Hàn Phi. Từ khoảng năm  232 BC trở đi Lý Tư giúp vua Tần diệt hết sáu nước còn lại, lần lượt : Hàn (230 BC), Triệu (228 BC), Ngụy ( 225 BC), Sở ( 223 BC) ,Yên (222BC),   sau cùng là Tề (221 BC ). Tần Vương Chính thống nhất toàn cõi Trung Hoa , tự xưng Tần Thủy Hoàng Đế, theo sách lược cai trị của Lý Tư gần như lập lại sách lược của Vệ Ưởng, từ sự áp dụng cho một nước Tần, cho đến cả một đại lục Trung  Hoa mênh mông.    

 

            1/ Về mặt tư tưởng: Theo đề nghị của Lý Tư, Tần Thủy Hoàng thi hành lệnh phần thư (đốt  sách chôn nho), đốt hết sách của bách gia, lịch sử các nước , chôn sống khoảng năm trăm nho sĩ, cấm mở những trường tư. “Tự do tư tưởng, tự do ngôn luận là tội nặng nhất” (STQ-Chương V-Trang 103-104).  Dân không cần suy nghĩ, chỉ cần theo pháp lệnh từ trên ban xuống.

 

            2/ Về mặt chính trị : Gom hết giai cấp quí tộc sáu nước về kinh đô Hàm Dương của nhà Tần. Toàn lãnh thổ Trung Hoa được chia thành 36 quận được quản lý bởi những quan chịu trách nhiệm trực tiếp với triều đình

 

            3/ Về mặt kinh tế xã hội : Ưu tiên cho hai giai cấp nông dân và quân đội, triệt bỏ tầng lớp thương gia, nhà nước nắm độc quyền buôn bán. Vua không còn là sở hữu chủ của ruộng đất canh tác, mà nông dân có quyền làm chủ ruộng tự ý mua bán.  Cuộc cải cách ruộng đất này gọi là chính sách “danh điền” dần dần đưa đến hình thành một giai cấp địa chủ xuất thân từ dân đen, giống như các lãnh chúa ở Âu Châu. (STQ-Chương V-trang 102).

 

            4/ Về mặt an ninh quốc nội : Cứ mười nhà họp thành một liên gia chịu trách nhiệm chung trước pháp luật

 

            5/ Về mặt đối ngoại: Xây tiếp Vạn Lý Trường Thành từ thời các nước ở phương Bắc như Yên, Triệu, Ngụy để ngăn Hung nô. Về phía Nam xua quân xâm chiếm những nước Bách Việt trong đó có nước Âu Lạc . Đó là một chính sách bành trướng mà những triều vua Trung Hoa sau này cho đến hiện đại luôn luôn lấy làm quốc sách.

 

            Nhìn chung nhà Tần từ thời Tần Hiếu Công đến Tần Thủy Hoàng đã là một mẫu mực cho những chế độ độc tài như chế độ cộng sản ngày nay. Dân nước Tần ở phía Tây man di hơn, kém văn hóa hơn dân những nước ở phía đông nhưng cuối cùng lại làm chủ xã hội.

 

            Xét riêng về lãnh vực văn học nghệ thuật, chữ nghĩa và những tác giả hưởng được số phận hạnh phúc trong thời Chiến Quốc trong không khí “trăm nhà đua tiếng”. Mạnh tử ( 372-289 BC) đã dám mắng cả vua mà vẫn ung dung đi du thuyết khắp các nước chư hầu ( STQ-Chương VI-Trang 125-128). Dưới thời Vệ Ưởng và Lý Tư, các nhà trí thức và chữ nghĩa của họ chịu số phận nghiệt ngã, bi thảm như tử tù trong tay hai cai ngục lãnh đạo văn học.

            Ngay trong thời hiện đại, những chế độ chuyên chế vẫn sợ chữ nghĩa ngoài lề, vì không đủ căn bản khoa học để đối thoại, nên phải dùng những cai văn nghệ kiểu Vệ Ưởng, Lý Tư để triệt bỏ tự do tư tưởng và tự do ngôn luận. Năm 1956, nhà văn Phan Khôi (1887- 1959 ) viết bài “Phê Bình Lãnh Đạo Văn Nghệ” đã nêu rõ thực trạng đối lập trong sinh hoạt văn nghệ miền Bắc, một bên là lãnh đạo văn nghệ, một bên là quần chúng văn nghệ . Lãnh đạo văn nghệ là những quan chức lớn quyền hành cao bổng lộc hậu,  có trách vụ cai quản đám công nhân sản xuất chữ nghĩa là quần chúng văn nghệ sống khổ cực, sẵn sàng vào tù nếu chữ nghĩa trật đường rầy (TRĂM HOA ĐUA NỞ TRÊN ĐẤT BẮC==1959-Sài Gòn—NXB :Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hóa—Phần II—Phái Cựu Học- Phan Khôi).

 

            Hình như đó là qui luật lịch sử loài người về sự lập lại của cùng hiện tượng dưới những hình thái khác nhau.

            Nhưng qui luật nhân quả, oan oan tương báo thì hiển nhiên. Đó là số phận của Tần Thủy Hoàng, các con  và Lý Tư. Năm 210 BC Tần Thủy Hoàng chết bất đắc kỳ tử giữa đường mà không chết giữa cung điện bao la tráng lệ. Lý Tư  bị Tần Nhị Thế giết ba họ năm 208 BC (tru di tam tộc). Thái giám Triệu Cao giết Thái tử Phù Tô, Tần Nhị Thế. Con Thái tử Phù Tô giết Triệu Cao. Cuối cùng nhà Tần sụp đổ chỉ trong vòng mười bốn năm ( 210-207 BC).

(CÒN TIẾP).
Đào Ngọc Phong
Westminster, CA ngày 21 tháng 5 năm 201

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chỉ ba tháng sau khi Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ lên cấp cao nhất trong hệ thống phân cấp ngoại giao trong chuyến thăm của Tổng thống Biden, người ta thấy Chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc đã trở thành nhà lãnh đạo thế giới mới nhất tăng cường quan hệ với Việt Nam với chuyến thăm Hà Nội trong tuần này...
Chuyến thăm Việt Nam hai ngày của Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước Cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình đã để lại nhiều hệ lụy cho nhân dân Việt Nam hơn bao giờ hết. Bằng chứng này được thể hiện trong Tuyên bố chung ngày 13/12/2023 theo đó họ Tập thay quan điểm “cộng đồng chung vận mệnh” bằng “xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai” cho hai nước...
Sự ra đi của nhà tư tưởng và thực hành xuất sắc về chính sách đối ngoại của Mỹ đánh dấu một kỷ nguyên kết thúc. Trong suốt sự nghiệp lâu dài và có ảnh hưởng phi thường của mình, Henry Kissinger đã xây dựng một di sản mà người Mỹ sẽ khôn ngoan chú ý trong kỷ nguyên mới của nền chính trị cường quốc và sự xáo trộn trong toàn cầu. Thật khó để tưởng tượng rằng thế giới mà không có Henry Kissinger, không chỉ đơn giản vì ông sống đến 100 tuổi, mà vì ông chiếm một vị trí có ảnh hưởng và đôi khi chế ngự trong chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của Mỹ trong hơn nửa thế kỷ.
“Tham nhũng kinh tế” ở Việt Nam đã trở thành “quốc nạn”, nhưng “tham nhũng quyền lực” do chính đảng viên gây ra để thu tóm quyền cai trị mới khiến Đảng lo sợ. Đó là nội dung đang được phổ biến học tập để đề phòng và bảo vệ chế độ do Ban Nội chính Trung ương công bố...
“Trong năm 2023 còn nhiều vấn đề đáng lo ngại, gây bất an cho xã hội. Các tội phạm trên các lĩnh vực tiếp tục gia tăng toàn quốc xảy ra 48.100 vụ phạm tội và trật tự xã hội tăng 18%.”
Việt Nam đang thương lượng mua chiến đấu cơ F-16 của Mỹ để tăng cường bảo vệ an ninh trước đe dọa ngày một lên cao của Trung Quốc ở Biển Đông. Tin này được truyền miệng ở Hoa Thịnh Đốn, tiếp theo sau chuyến thăm Việt Nam 2 ngày 10-11 tháng 9/2023 của Tổng thống Joe Biden. Tuy nhiên, các viên chức thẩm quyền của đôi bên không tiết lộ số lượng F-16 mà Việt Nam có thể mua với giá 30 triệu dollars một chiếc...
Số năm tháng tôi nằm trong tù chắc ít hơn thời gian mà nhà thơ Nguyễn Chí Thiện ngồi trong nhà mét (W.C) và có lẽ cũng chỉ bằng thời gian ngủ trưa của nhà văn Vũ Thư Hiên, ở trại Bất Bạt, Sơn Tây. Bởi vậy, sau khi đọc tác phẩm Hỏa Lò và Đêm Giữa Ban Ngày của hai ông (rồi đọc thêm Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, Thung Lũng Tử Thần của Vũ Ánh, và Trại Kiên Giam của Nguyễn Chí Thiệp) thì tôi tự hứa là không bao giờ viết lách gì vể chuyện nhà tù, trại tù hay người tù nào cả.
Càng gần đến Đại hội đảng toàn quốc khóa XIV (2026-2031), đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) càng ra sức kiên định 4 nguyên tắc được coi là “có ý nghĩa sống còn đối với chế độ.”
Trời mưa thì buồn. Trời nắng thì vui. Mưa nhiều quá gây lụt lội, trở thành thảm cảnh. Nắng quá độ gây khô hạn, cháy mùa màng, gây đói khổ. Gọi là thiên tai. Có nghĩa thảm họa do trời gây ra. Hoặc chữ “thiên” đại diện cho thiên nhiên. Nhưng gần đây, vấn nạn khí hậu biến đổi, gây ra nhiều “thiên tai” có thể gọi lại là “thiên nhân tai,” vì con người góp phần lớn tạo ra khốn khổ cho nhau. “Thiên nhân tai,” nghe lạ mà có đúng không? Nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu là hiệu ứng nhà kính. Một số loại khí trong bầu khí quyển bao quanh trái đất hoạt động hơi giống như gương kính trong nhà kính, giữ nhiệt của mặt trời và ngăn nó trở lại không gian, gây ra hiện tượng nóng lên cho toàn cầu. Nhiều loại khí nhà kính này xuất hiện một cách tự nhiên, nhưng các hoạt động của con người đang làm tăng nồng độ của một số loại khí này trong khí quyển, cụ thể là: Cacbon dioxit (CO2), khí mê-tan, nitơ oxit, khí florua
Tuy lịch sử không nói đến, nhưng nếu chịu khó lục lọi đây đó, người ta sẽ tìm ra một giai thoại khá thú vị về việc bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam được Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc trong buổi lễ trước công chúng tại vườn hoa Ba Đình (nay là Quảng trường Ba Đình) ngày 2 tháng 9 năm 1945. Theo tường thuật của nhà báo Hồng Hà trên báo Cứu Quốc của Việt Minh, ông Nguyễn Hữu Đang là người đọc chương trình buổi lễ và giới thiệu Chính phủ Lâm thời cùng chủ tịch Chính phủ đọc Tuyên ngôn Độc lập. Ông Nguyễn Hữu Đang là Trưởng ban Tổ chức Lễ đài, ông chính là người đứng trước micro giới thiệu: “Thưa đồng bào... Đây là Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Hồ Chí Minh.” Nói xong, ông lùi lại, nhường micro cho Hồ Chí Minh.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.