Hôm nay,  

Nouméa: đất lạ và nét quen

3/8/201700:03:00(View: 7899)

Nouméa: đất lạ và nét quen

 

Bùi Văn Phú

 

Cuối năm ngoái vợ chồng tôi đi Úc dự đám cưới cô cháu, cùng thăm bạn. Chuyến đi, bay thẳng từ San Francisco đến Sydney, dài 15 giờ đồng hồ. Trên đường về, ghé chơi vài đảo ở nam Thái Bình Dương cho biết đời sống ở đó và cũng để không phải ngồi trên chuyến bay quá dài.


Ở phi trường Sydney, khi làm thủ tục gửi hành lý và lấy ghế trên máy bay của hãng Aircalin để đi Nouvelle Calédonie, cô tiếp viên không rõ việc nhập cảnh vào đảo này cho người mang hộ chiếu Mỹ nên phải hỏi cấp trên. Tôi đã biết trước là không cần visa, nhưng cô ấy nói cần xem lại cho chắc. Có lẽ vì ít người mang hộ chiếu Mỹ đến đảo nên cô cần hỏi lại.


Sau khi xác nhận không cần visa, cô hỏi chúng tôi dự định ở đó bao lâu. Tôi trả lời 4 ngày. Cô nói đây là đảo đẹp, nhưng ở lâu sẽ chán, vài ngày là vừa đủ. Tôi nghĩ đời sống hải đảo ở đâu chắc cũng thế, như Hawaii nổi tiếng là “hải đảo thần tiên” của Mỹ, nhưng ở chừng một tuần là thấy chẳng còn gì vui chơi ngoài biển và cát.


Vào phòng đợi lên máy bay, hầu hết hơn một trăm hành khách là da trắng, vài người da đen. Mọi người nói tiếng Pháp. Có một anh đang nói chuyện qua điện thoại bằng tiếng Việt.


Sau gần ba giờ bay, phi cơ hạ cao độ. Nắng chiều chiếu lên đảo với núi xanh mầu cây lá giữa biển nước cũng trong xanh.


Phi trường Tontouta rất nhỏ, kiến trúc bằng kính và sắt i-nốc, trông còn mới và rất sạch. Không có chuyến bay khác đến nên lấy hành lý và qua kiểm soát di trú rất nhanh.


Nhiều người cùng lên xe buýt để vào Nouméa, thủ đô của Nouvelle Calédonie. Vừa ra khỏi phi trường, tôi thấy những cây phượng còn đỏ rực vì đang là mùa hè ở nam bán cầu.


Vào đến thành phố mất hơn một giờ đồng hồ, xe ghé qua vài khách sạn ở trung tâm, trước khi chạy về khu Anse Vata, nơi có Hilton và nhiều khách sạn khác dọc bờ biển.


Đêm về khu này nhộn nhịp người qua lại. Đi tìm nơi ăn tối, gặp quán Hanoi Plage nên chúng tôi ghé ăn thử.


Tôi gọi miến gà. Nhà tôi ăn phở gà. Thêm gỏi gà và một lon nước ngọt. Phở và miến có chả lụa. Gỏi bắp cải có húng bạc hà và nước mắm. Hỏi thăm chủ quán là người Việt và biết bà làm chủ nhiều nhà hàng. Khi biết chúng tôi từ California đến, bà nói thức ăn ở đây không thể ngon bằng bên Mỹ được. Nhà tôi nói phở có chả là lạ. Bà giải thích đúng ra là bò viên, nhưng tối nay hết nên thay bằng chả.


Bữa ăn tối đơn giản, phở và miến tô nhỏ, mỗi tô giá 1550 XPF, gỏi gà 1920, lon nước ngọt 650; tổng cộng 5670 XPF, gồm cả 5% thuế T.S.S. (1 USD = 105 XPF tiền địa phương), tính ra là 54 đô.


Buổi sáng đầu tiên ở Nouméa, từ tầng cao của khách sạn nhìn ra xa là biển, bên dưới có thông xanh và những cây phượng đang rộ nở hoa làm tôi nhớ Nha Trang trong một lần ghé thăm. Trời nắng nóng và có gió thoảng. Cuối tháng 12 mà như mùa hè ở quê cũ.


Là thuộc địa Pháp nên ăn sáng có croissant, paté chaud, cà-phê và sô-cô-la nóng. Như ở Sài Gòn ngày xưa. Mỗi thứ chừng 3 đô.


Ăn sáng xong chúng tôi xuống trung tâm thành phố. Hỏi lễ tân tìm cách đi xe buýt, cô nói đang là “big holiday” xe không chạy thường xuyên. Hôm đó là một ngày thường trong tuần nên tôi tò mò muốn biết dịp lễ gì mà là “big holiday”, cô nói là “summer”. Thì ra thế. Tiếng Anh ở đây và ở Mỹ có những khác biệt. Tôi nhớ lại bên Úc cũng gọi kỳ nghỉ hè là “big holiday”, không nghe dùng từ “vacation”.


Ra trạm xe buýt gặp vài người dân địa phương cùng cặp vợ chồng trẻ người Nhật đang đứng chờ. Có lẽ du khách Nhật đến đây nhiều, vì ở phi trường các bảng hướng dẫn có ba thứ tiếng là Pháp, Anh và Nhật. Các tài liệu du lịch cũng thế.


Vé một chuyến là 210 XPF. Xe chạy dọc theo bờ biển, có khi leo đồi thấp. Bên đường thỉnh thoảng có phượng đỏ và ít phượng vàng. Đa số nhà cửa không sang đẹp nhưng cũng không thấy những khu tồi tàn. Hệ thống chuyên chở công cộng ở đây rất thuận lợi cho việc di chuyển. Với gần chục tuyến đường đến được nhiều nơi trong thành phố và ngoại thành.


Chừng 30 phút tài xế báo đã đến trung tâm thành phố. Vừa xuống xe, thấy một cửa tiệm với bảng hiệu “Mai Linh”, bán tạp hóa và thức ăn.


Đi vài chục bước thì thật ngạc nhiên khi thấy một tượng đài ba người, với một phụ nữ đội khăn mỏ quạ là hình ảnh quen thuộc của đàn bà miền bắc Việt Nam.


Bức tượng mang tên Chân Đăng được dựng vào ngày 17/10/2013. Dưới chân tượng có khóm tre và hàng chữ bằng tiếng Việt và tiếng Pháp: “Ghi nhớ công ơn những người Chân Đăng Việt Nam đã góp phần phát triển nền kinh tế tại Nouvelle Calédonie và Nouvelle-Hébrides từ cuối thế kỷ mười chín.”


Thấy một phụ nữ gốc Á đang dắt chó đi dạo, tôi hỏi bằng tiếng mẹ đẻ: “Xin lỗi. Chị là người Việt?” và nghe đáp lại: “Dạ.”


Hỏi Chân Đăng nghĩa là gì thì chị cũng không biết. Chị ấy gốc Hà Nội, qua đây định cư đã 25 năm. Mẹ chị trước sống ở đây, đã hồi hương vào những năm 1960 và sau này được tái định cư. Chị đã có dịp qua California chơi, ghé Los Angeles, San Francisco. Chị nói ở Nouméa người Việt đông hơn người Hoa.


Gần tượng đài có một tiệm ăn đặt bảng bên lề đường với các món ăn châu Á trong đó có “nem”.


Hình ảnh này bỗng làm tôi nhớ đến thành phố Abidjan của Côte d’Ivoire ở châu Phi, nơi đầu tiên tôi thấy nem bán bên lề đường vào đầu thập niên 1980, mà theo kể lại thì có hai giả thuyết về hành trình đem nem đến châu Phi. Có thể món ăn này đã theo chân lính viễn chinh Pháp đem về vào những năm 1950, hoặc do một người gốc Việt qua đây định cư sau năm 1975 đem đến.


Nem trên đảo Nouvelle Calédonie không biết có từ bao giờ, nhưng chắc là do người Bắc Kỳ đem qua, vì nem là cách người bắc gọi chả giò. Mà người bắc đã có mặt trên hải đảo này cả thế kỷ trước, khi Pháp đưa người Tonkinoise qua đây làm phu mỏ.


Chúng tôi vào quán ăn thử. Sáu cái nem rán với chút rau sà-lát và nước mắm, giá 890 XPF. Không ngon vì nhân bên trong toàn củ cải hay củ sắn, chỉ chút thịt heo.


Đây là khu Á đông – Quartier Asiatique. Chung quanh thấy nhiều cửa hàng tạp hóa và thức ăn có bán nem và phở. Một cửa tiệm còn bày hàng chữ “Chúc Mừng Năm Mới” trong tủ kính phía trước.


Khát nước. Chúng tôi vào tiệm tạp hóa tìm mua nước. Thấy người Á đông tính tiền, tôi hỏi tiếng Việt là đúng ngay gặp được người mình. Anh lại nói lúc đầu tưởng tôi là người Nhật. Chai nước giá 110 XPF, anh tính bớt còn 105 thôi.


Place des Cocotiers là quảng trường chính của thành phố, không rộng lắm, là nơi tập trung sinh hoạt dịp lễ lớn. Dịp Giáng sinh buổi tối ở đây có hòa nhạc và trình diễn đèn mầu.


Dưới bóng dừa, bóng phượng có người ngồi chơi, vui đùa. Mấy đứa trẻ nô đùa đá bóng. Nơi đây có wifi miễn phí nhưng ít người dùng, có thể vì iPhone chưa được dùng nhiều ở đây.


Chúng tôi ăn trưa tại quán ở giữa quảng trường. Bánh mì jambon với phô-mai. Giòn và rất ngon.


Nhìn ra công viên, thấy một người da rất đen ăn bánh mì. Ông mở chai coca-cola, đổ xuống đất một chút rồi mới đưa lên miệng uống. Tôi đoán ông đến từ miền tây châu Phi vì đó là phong tục ở Togo, nơi tôi đã có một thời sống qua và hiểu được đó là cách tỏ lòng nhớ đến tổ tiên.


Từ quán ăn nhìn qua bên kia đường là một tòa nhà có hàng chữ BUI DUYET thật to.

Hỏi chuyện những người quanh đây, được biết ông Duyệt gốc Sài Gòn, có cơ sở buôn bán nhiều mặt hàng rất thành công. Đi quanh Nouméa tôi thấy hai bin-đinh mang tên ông.


Lịch sử của người Việt ở Nouvelle Calédonie bắt đầu vào những năm cuối thế kỷ 19, khi chính phủ Pháp đưa người Việt, gồm tù Côn Đảo và nhiều người Tonkinoise (Bắc Kỳ), qua đây làm phu mỏ. Ở tỉnh bắc của Nouvelle Calédonie như Thio, Tiébaghi ngày nay còn di tích và dấu vết của người Việt trong các viện bảo tàng.


Tác giả Jean VanMai, một người con của Chân Đăng nhưng không hồi hương vào năm 1960, trong tác phẩm Fils de Chan Dang ông đã ghi lại lịch sử của người Việt trên đảo và những khó khăn, tranh đấu của phu mỏ Việt cũng như những yếu tố tác động đến việc chính phủ Pháp đưa họ hồi hương.


Những người trở về đã chịu nhiều áp lực vì biến động và hoàn cảnh chính trị thế giới vào giai đoạn đó. Cũng có luận điểm cho rằng cộng sản đã ảnh hưởng nhiều đến công nhân phu mỏ người Việt ở đây nên họ đã đòi hồi hương.


Nouvelle Calédonie là nơi Pháp giam giữ tù nhân vào cuối thế kỷ 19, với nhiều tù chính trị từ Pháp và từ thuộc địa như Algerie, Đông Dương.


Từ cuối thể kỷ 19 Pháp đã đưa người Việt qua đảo. Chuyến tàu đầu tiên có 700 người, đa số là tù Côn Đảo.


Từ năm 1891 đến 1939 có tất cả 21.000 người Việt sang đây làm phu mỏ, theo hợp đồng 5 năm.


Đến đầu thập niên 1960 có chính sách đưa phu mỏ Việt trở lại Việt Nam, hầu hết là trở lại miền bắc, vì khi được đưa qua đây làm phu, họ là dân xứ Bắc Kỳ (Tonkin).


Khi ở Úc, biết tôi sẽ đi chơi Tân Thế Giới, một bác gốc Quảng Ninh đã kể rằng một số người khi hồi hương về Bắc có đem theo của, rồi dần cũng bị nhà nước lấy hết, kể cả những chiếc đồng hồ đeo tay.


Đến giữa thập niên 1980, Pháp và Việt Nam có thỏa thuận cho tái định cư ở Nouvelle Calédonie những ai có thân nhân còn ở đây. Nhiều người hồi hương trước đây, nay có cơ hội trở lại đảo để sinh sống và được nhập tịch Pháp.


Những ngày đi chơi Nouméa tôi đã thấy các cửa hàng tạp hóa, thức ăn với tên Việt như Mai Linh, Man Duong, Hanoi Plage, Along Beach, Như Ý và gặp được người Việt gốc Nam Định, Hà Nội, Ninh Bình, Bắc Ninh, Tuyên Quang.


Chợ chính của thành phố ở gần bến cảng cũng có nhiều sạp hàng của người Việt bán rau muống, mít, mãng cầu dai.


Trung tâm du khách gần tòa thị chính có quảng cáo hướng dẫn du lịch của anh Francois Trần.


Một buổi tối ở khách sạn, xem cuốn niên giám điện thoại thấy ở Nouméa họ Nguyễn có đến hơn trăm danh mục, chiếm hết gần một trang. Họ Trần 50, Phạm 30, Bùi 22, Hoàng 20, Ngô 4. Những khu vực quanh thủ đô như Dumbéa cũng có vài chục họ Việt. Xem kỹ từng tên, đa số có tên Pháp, nhưng vẫn còn những tên thuần Việt như Nguyen Ngoc Duc, Nguyen Minh Hoang, Hoang Thu Anh, Hoang Trong Thanh v.v…


Vì là thuộc địa nên ở đây có nếp sống Pháp. Nhiều nơi bán bánh mì jambon và các loại bánh ngọt. Một chiều ở bến cảng nghe ca sĩ Patricia Ségui hát nhạc Pháp rất dễ thương.


Một ngày có du thuyền cập bến, du khách tràn ngập khu này tìm mua đồ kỉ niệm là những chiếc áo mầu sặc sỡ hay đồ thủ công là những chiếc xe xích lô, xe vespa bằng gỗ mà tôi ngờ đó là hàng sản xuất từ Việt Nam. Nét văn hóa châu Á còn được biểu hiện qua những bộ tem thư mười hai con giáp do bưu điện phát hành vào dịp tết âm lịch.


Gần bến cảng có siêu thị Casino như siêu thị ở Mỹ và trong đó có bán thức ăn Việt như nem làm sẵn, phở gói, bánh tráng, nước mắm, mắm nêm.


Một buổi chiều chúng tôi ghé mua thịt bò, khoai, đậu và bơ, bánh mì về làm bíp-tếch ăn tối. Khi đến quầy rượu, định mua một chai vang thì nơi đây rào lại. Hỏi ra mới biết sau 12 giờ trưa không cho bán rượu, muốn mua phải chờ sáng hôm sau.


Về khách sạn, hỏi lễ tân và anh chỉ cho một nơi được phép bán rượu trong giờ cấm, cách khách sạn chừng 30 phút đi bộ. Theo chỉ đường, chúng tôi đến đó.


Nhưng mới chỉ vài phút sau khi rời khách sạn, thấy bên đường có một cửa hàng mang tên Việt, ghé vào xem có gì lạ. Thấy chỗ để bia rượu có vải che, nhưng còn một kệ với rượu vang để mở. Tôi đang chọn rượu thì được chủ cửa hàng giải thích là giờ này không được bán rượu.


Khi biết chúng tôi là người Việt, bác nói sẽ bán cho, nhưng phải giấu vào giỏ đeo. Tôi mua một chai, cái mở nút, một lon bia Number 1, là bia nội địa, tất cả chừng 15 đô.


Chị chủ tiệm, người Tuyên Quang, theo bố mẹ qua đây định cư từ năm 1992, còn chồng gốc Nam Định. Nghe kể vào những năm 1960 Pháp đưa người hồi hương mà con cháu không muốn về cũng bị bắt buộc phải về.


Đến cuối thập niên 1980 chính phủ Pháp lại có chính sách cho trở lại Nouvelle Calédonie định cư nên gia đình chị được người bác bảo trợ qua đây. Chị kể, lúc trước còn dễ, cho con cái đã có gia đình cũng được đi, bây giờ chỉ con dưới 18 tuổi mới được đi theo.


Người Việt qua đây chịu khó làm ăn, mở cửa hàng buôn bán nên đời sống cũng khá. Anh chị trước đây có mấy cửa tiệm, nay đã sang lại chỉ còn giữ tiệm này. Một người con gái của anh chị đang học thạc sĩ luật bên Pháp.


Hỏi thăm đời sống, anh cho biết lương giáo viên ở đây từ 5 đến 7 nghìn đôla một tháng, được coi là cao. Mua nhà có thể trả góp, mỗi tháng bằng 30% lương, và phải chứng minh được thu nhập vì cơ quan chức năng sợ có việc rửa tiển của những thành phần làm ăn bất chính.


Người Việt ở Nouméa có đến vài nghìn, trong số chừng 100.000 cư dân. Ở đây có nhà thờ với cha người Việt từ địa phương. Cũng có chùa nhưng nhà sư từ trong nước qua lo giúp, nay đã về lại nên giờ đang xin một thầy khác qua.


Sinh hoạt tập trung tại Hội Ái hữu Việt Nam và chính phủ Việt Nam mới cử một người làm tổng lãnh sự danh dự ở Nouméa. Người Việt ở đây có liên hệ thân thiết nhất là với hội đồng hương Tân Đảo ở Nam Định.


Trước khi chia tay chúng tôi cám ơn anh chị đã cho cơ hội được biết về người Việt ở hải đảo này và được có rượu để uống tối nay.


Những ngày rong chơi ở Nouméa chúng tôi vào thăm Bảo tàng Nouvelle Calédonie để thấy nét văn hóa truyền thống của dân bản địa Kanak trải qua nhiều thế kỷ. Từ cách đan rổ rá, rọ bắt cá, cung tên bằng tre, nhà lá vách đất, cho đến cách làm thuyền buồm để vượt đại dương, đến những ảnh tượng mỹ thuật bằng gỗ, kim loại.


Nouvelle Calédonie trong những năm Thế chiến Thứ Hai được Pháp cho Hoa Kỳ dùng làm căn cứ quân sự. Anse Vata đã từng là khu bệnh viện chữa trị cho binh lính bị thương ở mặt trận Thái Bình Dương.


Lính Mỹ đã đổ bộ lên đây vào ngày 12 tháng 3/1942 và lúc cao điểm đã có 130.000 lính Mỹ đồn trú trên đảo. Trong thời gian chiến tranh, hơn một triệu lính Mỹ đã dừng chân tại đây.


Ngày nay ở Nouméa có Đài Tưởng niệm người Mỹ (American Memorial), có Bảo tàng Thế chiến Thứ Hai trên đường Paul Doumer, trong đó ghi lại hoạt động của Hoa Kỳ và đồng minh khi tham chiến, cho đến năm 1946 sau khi Nhật đã đầu hàng.


Nouvelle Calédonie chính thức là thuộc địa của Pháp từ năm 1853. Rộng 18.000 kilô-mét vuông, với 270.000 dân, đến nay đảo này tuy được tự trị nhưng vẫn nằm trong sự kiểm soát của Pháp.


Tuy đã có những phong trào đòi độc lập, nhưng qua nhiều lần trưng cầu dân ý, đa số cư dân Nouvelle Calédonie vẫn không muốn tách rời khỏi nước Pháp.


[nguồn: VOA]

blank

H01: Cuối tháng 12 ở Nouméa có hoa phượng rực nở (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H02: Trạm xe buýt (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H03: Tượng Chân Đăng (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H04: Cửa hàng bán đồ điện tử của người Việt (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H05: Tem thư do bưu điện Nouvelle Calédonie phát hành dịp Tết Âm lịch (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H06: Nem và phở là những món ăn Việt được nhiều người biết đến ở Nouméa (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H07: Bảo tàng Thế chiến Thứ Hai  (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H08: Mỹ thuật của người bản xứ Kanak trong Bảo tàng Nouvelle Calédonie  (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H09: Tiệm tạp hóa và thức ăn của người Việt (Ảnh: Bùi Văn Phú)

 


Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Trước công luận, Eisenhower lập luận là cuộc chiến không còn nằm trong khuôn khổ chống thực dân mà mang một hình thức chiến tranh ủy nhiệm để chống phong trào Cộng Sản đang đe doạ khắp thế giới. Dân chúng cần nhận chân ra vấn đề bản chất của Việt Minh là Cộng Sản và chỉ nhân danh đấu tranh giành độc lập cho Việt Nam; quan trọng nhất là phải xem ông Hồ chí Minh là một cánh tay nối dài của Liên Xô. Đó là lý do cộng đồng quốc tế cần phải tiếp tục hỗ trợ cho Pháp chiến đấu.
Dù vẫn còn tại thế e Trúc Phương cũng không có cơ hội để dự buổi toạ đàm (“Sự Trở Lại Của Văn Học Đô Thị Miền Nam”) vào ngày 19 tháng 4 vừa qua. Ban Tổ Chức làm sao gửi thiệp mời đến một kẻ vô gia cư, sống ở đầu đường xó chợ được chớ? Mà lỡ có được ai quen biết nhắn tin về các buổi hội thảo (tọa đàm về văn học nghệ thuật miền Nam trước 1975) chăng nữa, chưa chắc ông Nguyễn Thế Kỷ – Chủ Tịch Hội Đồng Lý Luận, Phê Bình Văn Học, Nghệ Thuật – đã đồng ý cho phép Trúc Phương đến tham dự với đôi dép nhựa dưới chân. Tâm địa thì ác độc, lòng dạ thì hẹp hòi (chắc chỉ nhỏ như sợi chỉ hoặc cỡ cây tăm là hết cỡ) mà tính chuyện hoà hợp hay hoà giải thì hoà được với ai, và huề sao được chớ!
Lời người dịch: Trong bài này, Joseph S. Nye không đưa ra một kịch bản tồi tệ nhất khi Hoa Kỳ và Trung Quốc không còn kiềm chế lý trí trong việc giải quyết các tranh chấp hiện nay: chiến tranh nguyên tử có thể xảy ra cho nhân loại. Với 8000 đầu đạn hạt nhân của Nga, khoảng 270 của Trung Quốc, với 7000 của Mỹ, việc xung đột hai nước, nếu không có giải pháp, sẽ là nghiêm trọng hơn thời Chiến tranh Lạnh.
Kính thưa mẹ, Cứ mỗi tháng 5 về, nước Mỹ dành ngày Chủ Nhật của tuần đầu tiên làm Ngày của Mẹ (Mother's Day), ngày để tôn vinh tất cả những người Mẹ, những người đã mang nặng đẻ đau, suốt đời thầm lặng chịu thương, chịu khó và chịu khổ để nuôi những đứa con lớn khôn thành người.
Khoảng 4.500 người đã được phỏng vấn, trong đó có khoảng 700 người gốc Á. 49% những người được hỏi có nguồn gốc châu Á đã từng trải qua sự phân biệt chủng tộc trong đại dịch. Trong 62 phần trăm các trường hợp, đó là các cuộc tấn công bằng lời nói. Tuy nhiên, 11% cũng bị bạo hành thể xác (koerperliche Gewalt) như khạc nhổ, xô đẩy hoặc xịt (phun) thuốc khử trùng.
Nguyệt Quỳnh: Anh còn điều gì khác muốn chia sẻ thêm? Trịnh Bá Phương: Trong cuộc đấu tranh giữ đất, nhóm chúng tôi đã tham gia các phong trào khác như bảo vệ cây xanh, bảo vệ môi trường, tham gia biểu tình đòi tự do cho các nhà yêu nước, tham gia các phiên toà xét xử người yêu nước bị nhà nước cộng sản bắt giam tuỳ tiện. Và hướng về biển đông, chống sự bành trướng của Bắc Kinh khi đã cướp Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam! Và mới đây là phản đối bè lũ bán nước đã đưa ra dự luật đặc khu và dự luật an ninh mạng.
Có một câu thần chú mới mà các nhân viên FBI đã khuyên tất cả chúng ta phải học thuộc và nên áp dụng trong thời đại này. Thời đại của cao trào xả súng đang diễn ra khắp nơi ở Hoa Kỳ. Xin giới thiệu cùng bạn đọc một bài viết hữu ích của nữ ký giả Alaa Elassar của đài CNN đang được đăng tải trên liên mạng. Cô đã nêu ra những lời khuyên rất cần thiết cho chúng ta, căn bản dựa trên những video clips huấn luyện và đào tạo nhân viên của FBI.
Since I arrived in the United States in “Black April” of 1975 (the Fall of Saigon) and had been resettled in Oklahoma City to date, I have had two opportunities to go back to schools. The first one I studied at Oklahoma City University (OCU) for 5 years and received my degree in 1981. Having to work during day time, I could only go to school in the evening.
Như vậy, từ hiện tượng đảng viên “quay lưng” lại với đảng đến chuyện dân bỏ mặc mọi việc cho nhà nước lo cho tới chuyện thanh niên, rường cột của Tổ quốc, cũng “khô đoàn” và “nhạt đảng” thì điều được gọi là “nền tảng Tư tưởng đảng” có còn gốc rễ gì không, hay trốc hết rồi?
Niềm vui trong Ngày Hội Ngộ, với đặc san được quý nương “khen” còn mấy ông già chồng chỉ gật gù “mầy giữ gìn sức khỏe để tiếp tục”. Tháng 5 năm 2020 và tháng 5 năm nay vì cái dịch Covod-19, không có cơ hội gặp nhau. Dù “ghét cay ghét đắng” mấy ông già chồng hành hạ “con dâu” nầy nhưng không được dịp hội ngộ với nhau, nhớ nhiều.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.