Hôm nay,  
CTA_United Educators_Display_300x250_Vietnamese - Nguoi Viet

Nouméa: đất lạ và nét quen

08/03/201700:03:00(Xem: 7064)

Nouméa: đất lạ và nét quen

 

Bùi Văn Phú

 

Cuối năm ngoái vợ chồng tôi đi Úc dự đám cưới cô cháu, cùng thăm bạn. Chuyến đi, bay thẳng từ San Francisco đến Sydney, dài 15 giờ đồng hồ. Trên đường về, ghé chơi vài đảo ở nam Thái Bình Dương cho biết đời sống ở đó và cũng để không phải ngồi trên chuyến bay quá dài.


Ở phi trường Sydney, khi làm thủ tục gửi hành lý và lấy ghế trên máy bay của hãng Aircalin để đi Nouvelle Calédonie, cô tiếp viên không rõ việc nhập cảnh vào đảo này cho người mang hộ chiếu Mỹ nên phải hỏi cấp trên. Tôi đã biết trước là không cần visa, nhưng cô ấy nói cần xem lại cho chắc. Có lẽ vì ít người mang hộ chiếu Mỹ đến đảo nên cô cần hỏi lại.


Sau khi xác nhận không cần visa, cô hỏi chúng tôi dự định ở đó bao lâu. Tôi trả lời 4 ngày. Cô nói đây là đảo đẹp, nhưng ở lâu sẽ chán, vài ngày là vừa đủ. Tôi nghĩ đời sống hải đảo ở đâu chắc cũng thế, như Hawaii nổi tiếng là “hải đảo thần tiên” của Mỹ, nhưng ở chừng một tuần là thấy chẳng còn gì vui chơi ngoài biển và cát.


Vào phòng đợi lên máy bay, hầu hết hơn một trăm hành khách là da trắng, vài người da đen. Mọi người nói tiếng Pháp. Có một anh đang nói chuyện qua điện thoại bằng tiếng Việt.


Sau gần ba giờ bay, phi cơ hạ cao độ. Nắng chiều chiếu lên đảo với núi xanh mầu cây lá giữa biển nước cũng trong xanh.


Phi trường Tontouta rất nhỏ, kiến trúc bằng kính và sắt i-nốc, trông còn mới và rất sạch. Không có chuyến bay khác đến nên lấy hành lý và qua kiểm soát di trú rất nhanh.


Nhiều người cùng lên xe buýt để vào Nouméa, thủ đô của Nouvelle Calédonie. Vừa ra khỏi phi trường, tôi thấy những cây phượng còn đỏ rực vì đang là mùa hè ở nam bán cầu.


Vào đến thành phố mất hơn một giờ đồng hồ, xe ghé qua vài khách sạn ở trung tâm, trước khi chạy về khu Anse Vata, nơi có Hilton và nhiều khách sạn khác dọc bờ biển.


Đêm về khu này nhộn nhịp người qua lại. Đi tìm nơi ăn tối, gặp quán Hanoi Plage nên chúng tôi ghé ăn thử.


Tôi gọi miến gà. Nhà tôi ăn phở gà. Thêm gỏi gà và một lon nước ngọt. Phở và miến có chả lụa. Gỏi bắp cải có húng bạc hà và nước mắm. Hỏi thăm chủ quán là người Việt và biết bà làm chủ nhiều nhà hàng. Khi biết chúng tôi từ California đến, bà nói thức ăn ở đây không thể ngon bằng bên Mỹ được. Nhà tôi nói phở có chả là lạ. Bà giải thích đúng ra là bò viên, nhưng tối nay hết nên thay bằng chả.


Bữa ăn tối đơn giản, phở và miến tô nhỏ, mỗi tô giá 1550 XPF, gỏi gà 1920, lon nước ngọt 650; tổng cộng 5670 XPF, gồm cả 5% thuế T.S.S. (1 USD = 105 XPF tiền địa phương), tính ra là 54 đô.


Buổi sáng đầu tiên ở Nouméa, từ tầng cao của khách sạn nhìn ra xa là biển, bên dưới có thông xanh và những cây phượng đang rộ nở hoa làm tôi nhớ Nha Trang trong một lần ghé thăm. Trời nắng nóng và có gió thoảng. Cuối tháng 12 mà như mùa hè ở quê cũ.


Là thuộc địa Pháp nên ăn sáng có croissant, paté chaud, cà-phê và sô-cô-la nóng. Như ở Sài Gòn ngày xưa. Mỗi thứ chừng 3 đô.


Ăn sáng xong chúng tôi xuống trung tâm thành phố. Hỏi lễ tân tìm cách đi xe buýt, cô nói đang là “big holiday” xe không chạy thường xuyên. Hôm đó là một ngày thường trong tuần nên tôi tò mò muốn biết dịp lễ gì mà là “big holiday”, cô nói là “summer”. Thì ra thế. Tiếng Anh ở đây và ở Mỹ có những khác biệt. Tôi nhớ lại bên Úc cũng gọi kỳ nghỉ hè là “big holiday”, không nghe dùng từ “vacation”.


Ra trạm xe buýt gặp vài người dân địa phương cùng cặp vợ chồng trẻ người Nhật đang đứng chờ. Có lẽ du khách Nhật đến đây nhiều, vì ở phi trường các bảng hướng dẫn có ba thứ tiếng là Pháp, Anh và Nhật. Các tài liệu du lịch cũng thế.


Vé một chuyến là 210 XPF. Xe chạy dọc theo bờ biển, có khi leo đồi thấp. Bên đường thỉnh thoảng có phượng đỏ và ít phượng vàng. Đa số nhà cửa không sang đẹp nhưng cũng không thấy những khu tồi tàn. Hệ thống chuyên chở công cộng ở đây rất thuận lợi cho việc di chuyển. Với gần chục tuyến đường đến được nhiều nơi trong thành phố và ngoại thành.


Chừng 30 phút tài xế báo đã đến trung tâm thành phố. Vừa xuống xe, thấy một cửa tiệm với bảng hiệu “Mai Linh”, bán tạp hóa và thức ăn.


Đi vài chục bước thì thật ngạc nhiên khi thấy một tượng đài ba người, với một phụ nữ đội khăn mỏ quạ là hình ảnh quen thuộc của đàn bà miền bắc Việt Nam.


Bức tượng mang tên Chân Đăng được dựng vào ngày 17/10/2013. Dưới chân tượng có khóm tre và hàng chữ bằng tiếng Việt và tiếng Pháp: “Ghi nhớ công ơn những người Chân Đăng Việt Nam đã góp phần phát triển nền kinh tế tại Nouvelle Calédonie và Nouvelle-Hébrides từ cuối thế kỷ mười chín.”


Thấy một phụ nữ gốc Á đang dắt chó đi dạo, tôi hỏi bằng tiếng mẹ đẻ: “Xin lỗi. Chị là người Việt?” và nghe đáp lại: “Dạ.”


Hỏi Chân Đăng nghĩa là gì thì chị cũng không biết. Chị ấy gốc Hà Nội, qua đây định cư đã 25 năm. Mẹ chị trước sống ở đây, đã hồi hương vào những năm 1960 và sau này được tái định cư. Chị đã có dịp qua California chơi, ghé Los Angeles, San Francisco. Chị nói ở Nouméa người Việt đông hơn người Hoa.


Gần tượng đài có một tiệm ăn đặt bảng bên lề đường với các món ăn châu Á trong đó có “nem”.


Hình ảnh này bỗng làm tôi nhớ đến thành phố Abidjan của Côte d’Ivoire ở châu Phi, nơi đầu tiên tôi thấy nem bán bên lề đường vào đầu thập niên 1980, mà theo kể lại thì có hai giả thuyết về hành trình đem nem đến châu Phi. Có thể món ăn này đã theo chân lính viễn chinh Pháp đem về vào những năm 1950, hoặc do một người gốc Việt qua đây định cư sau năm 1975 đem đến.


Nem trên đảo Nouvelle Calédonie không biết có từ bao giờ, nhưng chắc là do người Bắc Kỳ đem qua, vì nem là cách người bắc gọi chả giò. Mà người bắc đã có mặt trên hải đảo này cả thế kỷ trước, khi Pháp đưa người Tonkinoise qua đây làm phu mỏ.


Chúng tôi vào quán ăn thử. Sáu cái nem rán với chút rau sà-lát và nước mắm, giá 890 XPF. Không ngon vì nhân bên trong toàn củ cải hay củ sắn, chỉ chút thịt heo.


Đây là khu Á đông – Quartier Asiatique. Chung quanh thấy nhiều cửa hàng tạp hóa và thức ăn có bán nem và phở. Một cửa tiệm còn bày hàng chữ “Chúc Mừng Năm Mới” trong tủ kính phía trước.


Khát nước. Chúng tôi vào tiệm tạp hóa tìm mua nước. Thấy người Á đông tính tiền, tôi hỏi tiếng Việt là đúng ngay gặp được người mình. Anh lại nói lúc đầu tưởng tôi là người Nhật. Chai nước giá 110 XPF, anh tính bớt còn 105 thôi.


Place des Cocotiers là quảng trường chính của thành phố, không rộng lắm, là nơi tập trung sinh hoạt dịp lễ lớn. Dịp Giáng sinh buổi tối ở đây có hòa nhạc và trình diễn đèn mầu.


Dưới bóng dừa, bóng phượng có người ngồi chơi, vui đùa. Mấy đứa trẻ nô đùa đá bóng. Nơi đây có wifi miễn phí nhưng ít người dùng, có thể vì iPhone chưa được dùng nhiều ở đây.


Chúng tôi ăn trưa tại quán ở giữa quảng trường. Bánh mì jambon với phô-mai. Giòn và rất ngon.


Nhìn ra công viên, thấy một người da rất đen ăn bánh mì. Ông mở chai coca-cola, đổ xuống đất một chút rồi mới đưa lên miệng uống. Tôi đoán ông đến từ miền tây châu Phi vì đó là phong tục ở Togo, nơi tôi đã có một thời sống qua và hiểu được đó là cách tỏ lòng nhớ đến tổ tiên.


Từ quán ăn nhìn qua bên kia đường là một tòa nhà có hàng chữ BUI DUYET thật to.

Hỏi chuyện những người quanh đây, được biết ông Duyệt gốc Sài Gòn, có cơ sở buôn bán nhiều mặt hàng rất thành công. Đi quanh Nouméa tôi thấy hai bin-đinh mang tên ông.


Lịch sử của người Việt ở Nouvelle Calédonie bắt đầu vào những năm cuối thế kỷ 19, khi chính phủ Pháp đưa người Việt, gồm tù Côn Đảo và nhiều người Tonkinoise (Bắc Kỳ), qua đây làm phu mỏ. Ở tỉnh bắc của Nouvelle Calédonie như Thio, Tiébaghi ngày nay còn di tích và dấu vết của người Việt trong các viện bảo tàng.


Tác giả Jean VanMai, một người con của Chân Đăng nhưng không hồi hương vào năm 1960, trong tác phẩm Fils de Chan Dang ông đã ghi lại lịch sử của người Việt trên đảo và những khó khăn, tranh đấu của phu mỏ Việt cũng như những yếu tố tác động đến việc chính phủ Pháp đưa họ hồi hương.


Những người trở về đã chịu nhiều áp lực vì biến động và hoàn cảnh chính trị thế giới vào giai đoạn đó. Cũng có luận điểm cho rằng cộng sản đã ảnh hưởng nhiều đến công nhân phu mỏ người Việt ở đây nên họ đã đòi hồi hương.


Nouvelle Calédonie là nơi Pháp giam giữ tù nhân vào cuối thế kỷ 19, với nhiều tù chính trị từ Pháp và từ thuộc địa như Algerie, Đông Dương.


Từ cuối thể kỷ 19 Pháp đã đưa người Việt qua đảo. Chuyến tàu đầu tiên có 700 người, đa số là tù Côn Đảo.


Từ năm 1891 đến 1939 có tất cả 21.000 người Việt sang đây làm phu mỏ, theo hợp đồng 5 năm.


Đến đầu thập niên 1960 có chính sách đưa phu mỏ Việt trở lại Việt Nam, hầu hết là trở lại miền bắc, vì khi được đưa qua đây làm phu, họ là dân xứ Bắc Kỳ (Tonkin).


Khi ở Úc, biết tôi sẽ đi chơi Tân Thế Giới, một bác gốc Quảng Ninh đã kể rằng một số người khi hồi hương về Bắc có đem theo của, rồi dần cũng bị nhà nước lấy hết, kể cả những chiếc đồng hồ đeo tay.


Đến giữa thập niên 1980, Pháp và Việt Nam có thỏa thuận cho tái định cư ở Nouvelle Calédonie những ai có thân nhân còn ở đây. Nhiều người hồi hương trước đây, nay có cơ hội trở lại đảo để sinh sống và được nhập tịch Pháp.


Những ngày đi chơi Nouméa tôi đã thấy các cửa hàng tạp hóa, thức ăn với tên Việt như Mai Linh, Man Duong, Hanoi Plage, Along Beach, Như Ý và gặp được người Việt gốc Nam Định, Hà Nội, Ninh Bình, Bắc Ninh, Tuyên Quang.


Chợ chính của thành phố ở gần bến cảng cũng có nhiều sạp hàng của người Việt bán rau muống, mít, mãng cầu dai.


Trung tâm du khách gần tòa thị chính có quảng cáo hướng dẫn du lịch của anh Francois Trần.


Một buổi tối ở khách sạn, xem cuốn niên giám điện thoại thấy ở Nouméa họ Nguyễn có đến hơn trăm danh mục, chiếm hết gần một trang. Họ Trần 50, Phạm 30, Bùi 22, Hoàng 20, Ngô 4. Những khu vực quanh thủ đô như Dumbéa cũng có vài chục họ Việt. Xem kỹ từng tên, đa số có tên Pháp, nhưng vẫn còn những tên thuần Việt như Nguyen Ngoc Duc, Nguyen Minh Hoang, Hoang Thu Anh, Hoang Trong Thanh v.v…


Vì là thuộc địa nên ở đây có nếp sống Pháp. Nhiều nơi bán bánh mì jambon và các loại bánh ngọt. Một chiều ở bến cảng nghe ca sĩ Patricia Ségui hát nhạc Pháp rất dễ thương.


Một ngày có du thuyền cập bến, du khách tràn ngập khu này tìm mua đồ kỉ niệm là những chiếc áo mầu sặc sỡ hay đồ thủ công là những chiếc xe xích lô, xe vespa bằng gỗ mà tôi ngờ đó là hàng sản xuất từ Việt Nam. Nét văn hóa châu Á còn được biểu hiện qua những bộ tem thư mười hai con giáp do bưu điện phát hành vào dịp tết âm lịch.


Gần bến cảng có siêu thị Casino như siêu thị ở Mỹ và trong đó có bán thức ăn Việt như nem làm sẵn, phở gói, bánh tráng, nước mắm, mắm nêm.


Một buổi chiều chúng tôi ghé mua thịt bò, khoai, đậu và bơ, bánh mì về làm bíp-tếch ăn tối. Khi đến quầy rượu, định mua một chai vang thì nơi đây rào lại. Hỏi ra mới biết sau 12 giờ trưa không cho bán rượu, muốn mua phải chờ sáng hôm sau.


Về khách sạn, hỏi lễ tân và anh chỉ cho một nơi được phép bán rượu trong giờ cấm, cách khách sạn chừng 30 phút đi bộ. Theo chỉ đường, chúng tôi đến đó.


Nhưng mới chỉ vài phút sau khi rời khách sạn, thấy bên đường có một cửa hàng mang tên Việt, ghé vào xem có gì lạ. Thấy chỗ để bia rượu có vải che, nhưng còn một kệ với rượu vang để mở. Tôi đang chọn rượu thì được chủ cửa hàng giải thích là giờ này không được bán rượu.


Khi biết chúng tôi là người Việt, bác nói sẽ bán cho, nhưng phải giấu vào giỏ đeo. Tôi mua một chai, cái mở nút, một lon bia Number 1, là bia nội địa, tất cả chừng 15 đô.


Chị chủ tiệm, người Tuyên Quang, theo bố mẹ qua đây định cư từ năm 1992, còn chồng gốc Nam Định. Nghe kể vào những năm 1960 Pháp đưa người hồi hương mà con cháu không muốn về cũng bị bắt buộc phải về.


Đến cuối thập niên 1980 chính phủ Pháp lại có chính sách cho trở lại Nouvelle Calédonie định cư nên gia đình chị được người bác bảo trợ qua đây. Chị kể, lúc trước còn dễ, cho con cái đã có gia đình cũng được đi, bây giờ chỉ con dưới 18 tuổi mới được đi theo.


Người Việt qua đây chịu khó làm ăn, mở cửa hàng buôn bán nên đời sống cũng khá. Anh chị trước đây có mấy cửa tiệm, nay đã sang lại chỉ còn giữ tiệm này. Một người con gái của anh chị đang học thạc sĩ luật bên Pháp.


Hỏi thăm đời sống, anh cho biết lương giáo viên ở đây từ 5 đến 7 nghìn đôla một tháng, được coi là cao. Mua nhà có thể trả góp, mỗi tháng bằng 30% lương, và phải chứng minh được thu nhập vì cơ quan chức năng sợ có việc rửa tiển của những thành phần làm ăn bất chính.


Người Việt ở Nouméa có đến vài nghìn, trong số chừng 100.000 cư dân. Ở đây có nhà thờ với cha người Việt từ địa phương. Cũng có chùa nhưng nhà sư từ trong nước qua lo giúp, nay đã về lại nên giờ đang xin một thầy khác qua.


Sinh hoạt tập trung tại Hội Ái hữu Việt Nam và chính phủ Việt Nam mới cử một người làm tổng lãnh sự danh dự ở Nouméa. Người Việt ở đây có liên hệ thân thiết nhất là với hội đồng hương Tân Đảo ở Nam Định.


Trước khi chia tay chúng tôi cám ơn anh chị đã cho cơ hội được biết về người Việt ở hải đảo này và được có rượu để uống tối nay.


Những ngày rong chơi ở Nouméa chúng tôi vào thăm Bảo tàng Nouvelle Calédonie để thấy nét văn hóa truyền thống của dân bản địa Kanak trải qua nhiều thế kỷ. Từ cách đan rổ rá, rọ bắt cá, cung tên bằng tre, nhà lá vách đất, cho đến cách làm thuyền buồm để vượt đại dương, đến những ảnh tượng mỹ thuật bằng gỗ, kim loại.


Nouvelle Calédonie trong những năm Thế chiến Thứ Hai được Pháp cho Hoa Kỳ dùng làm căn cứ quân sự. Anse Vata đã từng là khu bệnh viện chữa trị cho binh lính bị thương ở mặt trận Thái Bình Dương.


Lính Mỹ đã đổ bộ lên đây vào ngày 12 tháng 3/1942 và lúc cao điểm đã có 130.000 lính Mỹ đồn trú trên đảo. Trong thời gian chiến tranh, hơn một triệu lính Mỹ đã dừng chân tại đây.


Ngày nay ở Nouméa có Đài Tưởng niệm người Mỹ (American Memorial), có Bảo tàng Thế chiến Thứ Hai trên đường Paul Doumer, trong đó ghi lại hoạt động của Hoa Kỳ và đồng minh khi tham chiến, cho đến năm 1946 sau khi Nhật đã đầu hàng.


Nouvelle Calédonie chính thức là thuộc địa của Pháp từ năm 1853. Rộng 18.000 kilô-mét vuông, với 270.000 dân, đến nay đảo này tuy được tự trị nhưng vẫn nằm trong sự kiểm soát của Pháp.


Tuy đã có những phong trào đòi độc lập, nhưng qua nhiều lần trưng cầu dân ý, đa số cư dân Nouvelle Calédonie vẫn không muốn tách rời khỏi nước Pháp.


[nguồn: VOA]

blank

H01: Cuối tháng 12 ở Nouméa có hoa phượng rực nở (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H02: Trạm xe buýt (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H03: Tượng Chân Đăng (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H04: Cửa hàng bán đồ điện tử của người Việt (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H05: Tem thư do bưu điện Nouvelle Calédonie phát hành dịp Tết Âm lịch (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H06: Nem và phở là những món ăn Việt được nhiều người biết đến ở Nouméa (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H07: Bảo tàng Thế chiến Thứ Hai  (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H08: Mỹ thuật của người bản xứ Kanak trong Bảo tàng Nouvelle Calédonie  (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H09: Tiệm tạp hóa và thức ăn của người Việt (Ảnh: Bùi Văn Phú)

 


Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từ ngày nước Mỹ lập quốc, chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại bị đối thủ mang ra mổ xẻ, tấn công với những lời lẽ không phù hợp với tư cách một người tranh cử vị trí lãnh đạo quốc gia. Nhưng ngược lại, cũng chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại trở thành niềm hy vọng cho một đất nước đang đối đầu với mối nguy hiểm “duy nhất suốt 248 năm” (theo lời cựu Phó Tổng Thống Dick Chenny.) Đó là nụ cười của Kamala Harris – Một nụ cười đang ngày càng thay hình đổi dạng cuộc tranh cử tổng thống kinh điển của nước Mỹ.
Cựu Tổng Thống Donald Trump đã trình bầy kế hoạch kinh tế của ông tại Economic Club of New York trước đám đông các kinh tế gia, lãnh đạo doanh nghiệp và nhà báo vào 5-9-2024 vừa qua. Buổi nói chuyện này nằm trong chiến dịch tranh cử. Kế hoạch kinh tế trong nhiệm kỳ 2 nếu ông thắng cử bao gồm nhiều chính sách mà ông đã thi hành trong bốn năm đầu cầm quyền. Ông tuyên bố sẽ loại bỏ nhiều chương trình của chính quyền Biden. Ứng cử viên tổng thống của Cộng Hòa quảng cáo chương trình của ông với thuế nội địa thấp, thuế nhập cảng cao chưa từng thấy, giảm bớt luật lệ, và kinh tế phát triển mạnh. Nhưng nhiều chuyên viên đã nghi ngờ giá trị của chương trình kinh tế này. Nhiều người đã lên tiếng chỉ trích đề xuất kinh tế của Trump như chúng ta sẽ thấy trong những phần dưới đây của bài báo này.
Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11 sắp tới không chỉ định hình tương lai chính trị của quốc gia trong vài năm tới mà còn đặt ra những câu hỏi căn bản về bản sắc và tương lai của chính nước Mỹ. Trong khi kết quả bầu cử sẽ quyết định nhiều vấn đề quan trọng, những xung đột sâu sắc về bản chất của nước Mỹ đã được phản ảnh rõ nét qua đường lối, chính sách nêu ra tại hai đại hội Đảng Cộng Hòa và Dân Chủ vừa qua.
Tôi đã xem qua cả trăm bài viết với với nội dung và ngôn từ (“đầu đường xó chợ”) tương tự nhưng chưa bao giờ bận tâm hay phiền hà gì sất. Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, các bạn DLV đều không quen cầm bút nên viết lách hơi bị khó khăn, và vô cùng khó đọc. Họ hoàn toàn không có khái niệm chi về câu cú và văn phạm cả nên hành văn lủng củng, vụng về, dài dòng, lan man trích dẫn đủ thứ nghị quyết (vớ vẩn) để chứng minh là đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước luôn luôn đúng đắn. Họ cũng sẵn sàng thóa mạ bất cứ ai không “nhận thức được sự đúng đắn” này, chứ không thể lập luận hay phản bác bất cứ một cáo buộc nào ráo trọi.
Ngày 20/7/1969, hai phi hành gia Neil Armstrong và Edwin Aldrin đi vào lịch sử như là hai người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng thế nhưng sự kiện này bị một số nhà “lý thuyết âm mưu” lên tiếng phủ nhận. Căn cứ vào những điểm “khả nghi” trong tấm hình chụp Armstrong đứng cạnh lá cờ cắm trên Mặt Trăng, họ quả quyết rằng tất cả chỉ là chuyện dàn dựng và bức hình này chỉ được chụp tại một sa mạc ở Nevada. Nhưng bằng chứng của vụ đổ bộ ấy đâu chỉ duy nhất một tấm hình? Tàu Appollo 11 phóng từ mũi Kennedy trước con mắt hàng chục ngàn người và hàng trăm triệu người qua ống kính truyền hình. Hàng trăm ngàn thước phim quay được và chụp được khi tàu Appollo vờn trên quỹ đạo quanh mặt trăng, cảnh tàu con rời tàu mẹ để đổ bộ, cảnh các phi hành gia đi bộ và cả những túi đất đá mang về từ Mặt Trăng v.v. Chúng ta thấy gì ở đây? Những bằng chứng xác thực thì nặng như núi nhưng, khi đã cố tình không tin, đã cố vạch ra những âm mưu thì chỉ cần mấy điểm khả nghi nhẹ tựa lông hồng.
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
Từ 20 năm qua (2004-2024), vấn đề hợp tác giữa người Việt Nam ở nước ngoài và đảng CSVN không ngừng được thảo luận, nhưng “đoàn kết dân tộc” vẫn là chuyện xa vời. Nguyên nhân còn ngăn cách cơ bản và quan trọng nhất vì đảng Cộng sản không muốn từ bỏ độc quyền cai trị, và tiếp tục áp đặt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh “làm nền tảng xây dựng đất nước”...
Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa. Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.