Hôm nay,  

Ảo Tưởng Của Khối BRICS

10/26/201600:00:00(View: 6868)

...năm hòn gạch thiếu xi măng...

Tuần qua, Thượng đỉnh thứ tám của khối BRICS đã hoàn tất tại Ấn Độ mà không có đột phá. Năm quốc gia với nền kinh tế đang phát triển là Brazil, Liên bang Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi, với tên gọi được viết tắt từ quốc hiệu là BRICS, có tham vọng tăng cường hợp tác và lập ra một trật tự kinh tế mới. Nhưng thực tế kinh tế và an ninh lại gây nhiều trở ngại bất ngờ. Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu tại sao…

Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin kính chào chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa. Thưa ông, sau hai ngày làm việc tại khu nghỉ mát thuộc tỉnh Goa của Ấn Độ, hội nghị của lãnh đạo năm nước có tên gọi tắt là BRICS đã kết thúc hôm 16 vừa qua mà không có gì nổi bật trong bản thông cáo chung. Có một thời mà năm quốc gia này từng hy vọng là đầu máy kinh tế của thế giới và là cường quốc có ảnh hưởng với các nền kinh tế đang lên. Thế thì vì sao thượng đỉnh lần thứ tám vừa qua của nhóm BRICS lại gây thất vọng?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Ngày xưa, tôi chơi chữ theo Pháp ngữ mà gọi khối kinh tế này là “bric-à-brac” là đồ tầm tầm. Tuần qua có người cũng chơi chữ theo Anh ngữ, với từ brics là gạch - mà thiếu xi măng! Năm quốc gia này muốn thành lập một khối kinh tế liên kết mà thật ra thiếu chất keo sơn hợp tác. Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu tại sao việc năm nước có dân số bằng phân nửa của địa cầu, với sản lượng tổng cộng chừng 17 ngàn tỷ đô la, bằng 30% sản lượng toàn cầu, lại khó trở thành một khối.

Nguyên Lam: Trước hết, xin đề nghị ông trình bày lại bối cảnh của sự hình thành nhóm quốc gia có tên tắt là BRICS và giải thích vì sao ông không đánh giá cao khả năng hợp tác của họ.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ là trong kinh tế học, ta cũng có truyện thần tiên! Số là năm 2001, một kinh tế gia gốc Anh của một tổ hợp đầu tư Mỹ là ông Jim ONeill của tập đoàn Goldman Sachs đề xướng ý tưởng ngộ nghĩnh có lẽ với dụng ý quảng cáo cho việc đầu tư của họ. Ý tưởng đó là sự xuất hiện của các nền kinh tế "đang lên" hay đang tiến lên trình độ công nghiệp hóa. Ông nêu tên bốn nền kinh tế lớn của loại này là Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc, viết tắt theo Anh ngữ là B.R.I.C. Sau đó, bốn nước tưởng thật, kể từ 2009 thì hàng năm hội họp với ước mơ lập ra một trật tự kinh tế mới cho thế giới, rồi qua năm sau mời thêm một xứ khác tại lục địa Phi Châu là Cộng hoà Nam Phi, từ năm 2011 đó mới có tên chính thức là B.R.I.C.S.

- Sáng kiến quảng cáo ấy ngộ nghĩnh vì gây ấn tượng các nền kinh tế đang lên có thể tách khỏi khối công nghiệp hóa để thành đầu máy kinh tế mới cho thế giới và là năm trung tâm thu hút đầu tư. Truyện thần tiên là 10 năm sau khi phát minh ra chữ BRICS, các nền kinh tế ấy vẫn lệ thuộc vào đà tăng trưởng của khối Âu-Mỹ-Nhật và đều bị suy trầm, thậm chí mấp mé khủng hoảng, như trường hợp Nga, Brazil hay Nam Phi từ vài năm nay. Nhưng khi có kẻ thổi bong bóng thì các quốc gia này chạy theo với ảo tưởng sẽ cạnh tranh rồi thay thế trật tự kinh tế do Hoa Kỳ và các nước Âu Châu lập ra từ sau Thế chiến II.

Nguyên Lam: Nhưng thưa ông, sau vụ khủng hoảng tài chính tại Hoa Kỳ vào năm 2008 rồi khó khăn triền miên của khối Euro kể từ năm 2010, thì năm 2014, khối BRICS đã lập ra Ngân hàng Phát triển BRICS và một Quỹ cấp cứu các nền kinh tế bị khủng hoảng nhằm thay thế dần vai trò của Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Ngày nay thì các dự án đó tiến tới đâu và liệu rằng ước mơ thay thế kiến trúc tài chính và trật tự kinh tế của họ có thành không mà có người mỉa mai như ông vừa nhắc là mấy cục gạch thiếu xi măng?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Khi người ta phát minh ra chữ này thì quả là các nền kinh tế đó đang tăng trưởng mạnh, dẫn đầu là Trung Quốc và Ấn Độ, và họ thấy là chưa được thế giới nể nang trong khi các định chế tài chính nói trên vẫn do Tây phương chi phối nên họ muốn là giải pháp thay thế. Nhưng khi thế giới bị Tổng suy trầm vào các năm 2008-2009 thì cả năm quốc gia đó đều gặp khó khăn, nhất là Nga và Brazil, Nam Phi và việc khối này đề nghị tung tiền cấp cứu Âu Châu vào thời đó chỉ là chuyện hão. Kết luận đầu tiên là đà tăng trưởng cao chưa là cơ sở của tích lũy và thứ hai, năm nước chưa thể mua bán với nhau mà tạo ra sự thịnh vượng chung vì phải tìm bạn hàng ở ngoài. Ngoại lệ ở đây là Trung Quốc, có mức xuất nhập khẩu đáng kể với bốn nước kia và có dự trữ ngoại tệ để đề ra sáng kiến thành lập Ngân hàng Phát triển với số vốn sơ khởi là 50 tỷ đô la. Sở dĩ sáng kiến này có vẻ hấp dẫn vì cho các nước đang phát triển một nguồn tài trợ khác mà chẳng có đòi hỏi khắt khe như Ngân hàng Thế giới hay Quỹ Tiền Tệ IMF.

- Nhưng đã nói về bối cảnh thì ta chẳng quên rằng từ năm 2010 Chính quyền của Tổng thống Barack Obama đã thỏa hiệp và cải cách IMF trong tinh thần mở rộng việc tham gia cho các nước và cuối năm ngoái thì Quốc hội Mỹ chính thức chấp nhận việc cải cách, nên sáng kiến của Bắc Kinh cũng mất phần hấp dẫn. Rồi IMF còn cho đưa đồng Nguyên của Trung Quốc vào rổ ngoại tệ gọi là Quyền Đặc Trích SDR từ đầu Tháng 10 này. Khi ấy, các nước còn lại, nhất là Ấn Độ, thấy việc hợp tác với BRICS chưa hẳn là có lợi về kinh tế lẫn tư thế ngoại giao hay an ninh trong khi đối thủ lâu đời là Trung Quốc lại có vẻ giữ thế thượng phong.

Nguyên Lam: Như vậy, thưa ông, phải chăng dự án BRICS thành hình trên hai nền móng, thứ nhất là hợp tác kinh tế cho sự thịnh vượng chung và thứ hai, đáng kể không kém, là lập ra một thế đối trọng với các định chế quốc tế do các nước Tây phương thành lập từ sau Thế chiến II?


Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa đúng như vậy và cả hai mục tiêu ấy đang thành viển vông.

- Sau giai đoạn tăng trưởng mạnh thì kể từ 2008, năm quốc gia này đã rẽ qua hai ngả. Ba nước Brazil, Nga và Nam Phi đều bị suy thoái và đồng bạc sụt giá nặng so với Mỹ kim, còn lại chỉ có Trung Quốc và Ấn Độ là còn có tăng trưởng. Nhưng sự khác biệt trong cấu trúc kinh tế mới cản trở nỗ lực hợp tác hay hội nhập và từng nước đang có mục tiêu thương mại và đầu tư riêng, nhắm vào các thị trường ở ngoài khối. Vì vậy, sáng kiến của Bắc Kinh tại thượng đỉnh vừa qua là thành lập một khối mậu dịch tự do giữa năm nước qua một Hiệp ước Thương mại lại chẳng được hưởng ứng. Ngoài ba nước bị khủng hoảng là Brazil, Nga và Nam Phi, chỉ có Trung Quốc và nhất là Ấn Độ còn sức tăng trưởng, nhưng Trung Quốc cần xuất khẩu và sẵn sàng đổ hàng rẻ vào bốn nước kia thì khối BRICS lập tức tan rã và Nam Phi có thể xin triệt thoái trước tiên!

- Nền móng hợp tác thứ hai là trở thành một thế lực đối trọng với các định chế do Tây phương lập ra từ sau Thế chiến II thì lại càng viển vông hơn. Định chế quốc tế số một là Liên hiệp quốc thì có Hội đồng Bảo an với năm thành viên thường trực có quyền phủ quyết là Anh, Pháp, Mỹ, Nga và Tầu. Nếu muốn cải cách kiến trúc quốc tế thành hình từ 70 năm trước thì sao Bắc Kinh không đòi cải tổ Liên hiệp quốc và nhận Ấn Độ làm thành viên thứ sáu của Hội đồng Bảo an? Ta nhớ là Tháng Chín vừa qua, Thủ tướng Nhật là Shinzo Abe cũng lên tiếng yêu cầu cải cách Liên hiệp quốc, và việc Nhật Bản, với kinh tế có sản lượng đứng hạng ba sau Mỹ và Tầu, lại chẳng được nhận là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an cũng là điều không thỏa đáng. Tức là khối BRICS muốn cải cách cấu trúc quốc tế nhưng có thành viên vẫn duy trì những gì có lợi cho họ và trong năm nước này, Nga và Tầu trong Hội đồng Bảo an lại là hai nước chưa có dân chủ! Tội gì mà họ thay đổi theo yêu cầu của ba nước còn lại?

Nguyên Lam: Khi ấy, người ta còn thấy một sự khác biệt quan điểm khá trầm trọng giữa lãnh đạo ba nước Nga, Tầu và Ấn khi Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi muốn nêu đích danh một tổ chức khủng bố xuất phát từ Pakistan đã vừa tấn công thị trấn Uri tại khu vực Kashmir của Ấn Độ mà ông Modi gặp sự cản trở của Tổng thống Vladimir Putin và Chủ tịch Tập Cận Bình. Nếu vậy, thưa ông, làm sao khối BRICS có thể hợp tác sâu xa hơn về an ninh?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chuyện này quả thật rắc rối và cho thấy nhiều mâu thuẫn bên trong.

- Số là hôm 18 tháng trước, bốn tên khủng bố của lực lượng Jaish-e-Mohammed, tức là đạo quân của Mohammad, đã từ khu vực Kashmir của Pakistan lẻn qua tấn công một đồn binh của Ấn. Các nước trên thế giới đều lên án hành động này và tổ chức Jaish-e-Mohammed đã bị Liên hiệp quốc cùng nhiều nước khác xếp vào danh mục khủng bố mà thực tế thì vẫn được Pakistan bao che, nhưng nhóm BRICS tránh đả kích tổ chức khủng bố tại Pakistan trong thông cáo chung. Về lịch sử thì Ấn Độ và Pakistan có hiềm khích lâu đời, và Nga là đồng minh của Ấn từ thời Liên Xô, còn Pakistan là đồng minh của Trung Cộng. Riêng hai nước Tầu và Ấn cũng có mâu thuẫn nặng và năm 1962 giao tranh quân sự Ấn-Hoa đã bùng nổ và tình trạng đối nghịch ấy vẫn còn. Ngày nay, Trung Quốc vẫn muốn bênh Pakistan và nước Nga cùng quẫn thì giữ thái độ hữu nghị với Ấn để bán võ khí vì vừa ký một hợp đồng trị giá gần 11 tỷ đô la tại Thượng đỉnh của nhóm BRICS, nhưng tránh làm Pakistan mất lòng vì, như Bắc Kinh, Nga cũng muốn sử dụng quân cảng Gwadar có nước sâu của Pakistan tại Ấn Độ Dương.

- Trong khi ấy, các nước của Hiệp hội Hợp tác Khu vực Nam Á hay SAARC, như Afghanistan, Bhutan và Bangladesh, lại ủng hộ Ấn Độ và từ chối dự Thượng đỉnh SAARC vào tháng tới tại thủ đô Islamabad của Pakistan. Cùng Thượng đỉnh BRICS, Ấn Độ cũng tổ chức hội nghị của Sáng kiến Vịnh Bengale về Hợp tác Đa ngành Kỹ thuật và Kinh tế, gọi là BIMSTEC, gồm các nước Nam Á và Đông Nam Á là Bangladesh, Ấn Độ, Sri Lanka, Bhutan, Nepal, Thái Lan và Miến Điện. Ngược với nhóm BRICS cố tránh chuyện khủng bố, các nước kia, kể cả Thái Lan, cũng đều có cùng quan điểm với Ấn Độ.

Nguyên Lam: Như vậy, người ta thấy Ấn Độ lại bị cản trở ngay trong nội bộ của nhóm BRICS trong khi quan điểm của mình lại được các nước bên ngoài ủng hộ. Gặp hoàn cảnh đó, làm sao năm quốc gia này lại có thể hợp tác gắn bó hơn về các lĩnh vực ngoài kinh tế?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi không nghĩ rằng sẽ có sự hợp tác sâu xa về an ninh hay ngoại giao, mà hợp tác kinh tế thì giới hạn và hội nhập kinh tế thành một khối tự do mậu dịch thì xa vời, trong khi từng nước có khi lại muốn mở rộng giao dịch với kinh tế Nhật, Đức, Mỹ, Anh hoặc Nam Hàn. Còn lại thì chỉ có hai chương trình khởi động từ hai năm nay là có hy vọng. Đó là Ngân hàng Phát triển BRICS với 100 tỷ vốn và vài dự án đã được tài trợ và Quỹ cấp cứu có 100 tỷ đô la cho các nước nhất thời cần thanh khỏan bằng ngoại tệ. Tôi thiển ngghĩ rằng năm nước chưa thể xé chiếu ngồi riêng, nhưng chỉ hợp tác với nhiều nghi ngại và đáng nghi ngại nhất là Trung Quốc cho hai lân bang kia là Nga và Ấn. Kết luận thì năm hòn gạch thiếu xi măng chỉ là cái bệ cho các lãnh tụ hàng năm gặp nhau để nói thách và ngã giá, chứ mục tiêu tranh đua với các nước dân chủ Tây phương chỉ là ảo giác, tốn kém và vô bổ.

Nguyên Lam: Ban Việt ngữ Đài Á Châu Tự Do và Nguyên Lam xin cảm tạ ông về cuộc phỏng vấn tuần này.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
Biển Đông hiện như một thùng thuốc súng và, liệu nếu xung đột bùng ra, chúng ta có phải đối phó với một quân đội Trung Quốc man rợ mà, so với quân đội Thiên hoàng Nhật trong Thế chiến thứ hai, chỉ có thể hơn chứ khó mà bằng, đừng nói chuyện thua? Như có thể thấy từ tin tức thời sự, cảnh lính Trung Quốc vác mã tấu xông lên tàu tiếp tế của Philippines chém phá trông man rợ có khác nào quân cướp biển từ tận hai, ba thế kỷ trước? [1] Rồi cảnh chúng – từ chính quy đến dân quân biển, thậm chí cả ngư dân – trấn lột, cướp phá, hành hung và bắt cóc các ngư phủ Việt Nam từ hơn ba thập niên qua cũng thế, cũng chính hiệu là nòi cướp biển.
Hội nghị Trung ương 10/khóa đảng XIII kết thúc sau 3 ngày họp (18-20/09/2024) tại Hà Nội nhưng không có đột phá nào, mọi chuyện vẫn “tròn như hòn bi” dù đây là hành động đầu tiên của tân Tổng Bí thư Tô Lâm...
Việc nhà hoạt động dân chủ Trần Huỳnh Duy Thức được nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do trước thời hạn có lẽ là một trong những vấn đề đã được nội các chính quyền Biden-Harris quan tâm và vận động từ năm 2021.
Đối với triết gia Immanuel Kant, lời nói dối là “cái ác bẩm sinh sâu xa trong bản chất con người” và cần phải tránh xa ngay cả khi đó là vấn đề sống còn1. Trong tác phẩm “Deciphering Lies”, Bettina Stangneth, 2017, viết rằng: “Trong số những lý do khiến người ta nói dối vì điều đó có thể giúp họ che giấu bản thân, ẩn náu và tránh xa những người xâm phạm vùng an toàn của họ.” Stangneth cho biết thêm, “cũng không khôn ngoan khi thả trẻ em ra thế giới mà không biết rằng người khác có thể nói dối chúng.” The Wasghington Post, ban kiểm tra sự thật, cho biết: Trong bốn năm làm tổng thống thứ 45, từ 2017-2021, đến cuối nhiệm kỳ, Trump đã tích lũy 30.573 lời nói dối trong suốt nhiệm kỳ tổng thống - trung bình khoảng 21 lời tuyên bố sai lầm mỗi ngày. Từ khi thua cuộc tái ứng cử vào tay tổng thống Joe Biden cho đến giờ này, tranh cử với bà Harris, ông Trump càng gia tăng khẩu phần nói dối, phong phú đến mức độ không thể đếm cho chính xác.
Câu chuyện hoang tưởng “di dân ăn thịt chó, mèo” của Donald Trump và JD Vance gây ra nỗi sợ hãi, tạo ra nhiều kích động tiêu cực, vì nó được nói ra trước 81 triệu dân Mỹ, từ một cựu tổng thống. Những lời vô căn cứ tràn đầy định kiến và thù hận đó như một bệ phóng cho con tàu “Kỳ Thị” bay vút vào không gian của thế kỷ 21, thả ra những làn khói độc. Nó như một căn bệnh trầm kha tiềm ẩn lâu ngày, nay đúng thời đúng khắc nên phát tán và lan xa. Nói như thế có nghĩa, con tàu “Kỳ Thị” này, căn bệnh này, vốn đã có từ rất lâu đời. Nó âm ỉ, tích tụ, dồn nén theo thời gian, chực chờ đến ngày bùng nổ. Một tuần qua, người Haiti, là nạn nhân của cơn bùng phát này. Gần nửa thế kỷ trước, và cho đến tận nay, là cộng đồng người gốc Việt.
Sự trỗi dậy của những nhóm cực hữu đang làm sống lại làn sóng kỳ thị chủng tộc, một căn bệnh trầm kha chưa bao giờ thực sự chấm dứt ở Hoa Kỳ. Để thực hiện những chương trình nghị sự của mình, những người theo chủ nghĩa thượng tôn da trắng đã thực hiện nhiều chiến lược, chiến thuật khác nhau. Trong những năm gần đây, nhiều nhà hoạt động đã cảnh báo các nhóm cực hữu đang cố sử dụng nền tảng giáo dục làm công cụ để bảo vệ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Một bài viết trên trang mạng lithub.com của tác giả Jason Stanley đã phân tích sâu sắc về đề tài này.
Nhìn ở bề ngoài thì ông Benjamin Netanyahu, Thủ tướng Do Thái, đang làm cái việc của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) Nguyễn Văn Thiệu từng làm với cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ 1968. Năm đó ông Thiệu bị cáo buộc là hành động để đảng Dân Chủ thua đảng Cộng Hòa còn bây giờ thì, xem ra, ông Netanyahu lại đang tháu cáy với nước cờ tương tự tuy nhiên bản chất hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.