Trang Sử Việt: Nguyễn Trung Trực
(Lời tâm tình: Bài viết về “Sử Việt” chỉ khái quát, không đi sâu từng chi tiết của mỗi nhân vật. Cuối mỗi bài viết, phần “Thiết nghĩ” nếu có chỉ là góp ý của tác giả, không ngoài mục đích làm sáng tỏ thêm về nội dung đã biên soạn. Trang Sử Việt luôn mong mỏi nhúm nhen tình tự dân tộc, niềm yêu thương quê hương và giữ gìn Việt ngữ cùng văn hóa Việt. Trang Sử Việt đăng trên Vietbao Online thứ Ba và thứ Sáu hằng tuần).
________________
NGUYỄN TRUNG TRỰC
(1837 - 1868)
.
Nguyễn Trung Trực còn tên là Nguyễn Văn Lịch hay Chơn, nguyên quán huyện Phù Cát, Bình Định, sau đến ở Long An.
Ông làm nông và chài lưới, tâm tư lo lắng nước nhà, chiêu mộ được một số nghĩa binh đưa đến đồn Kỳ Hòa hiệp cùng Nguyễn Tri Phương chống giặc cứu nước. Ông lại được đề cử đến giúp Trương Định. Sau khi, đồn Kỳ Hòa thất thủ (1861), Pháp lại lăm le chiếm 3 tỉnh miền Đông (Biên Hoà, Gia Định, Định Tường). Ông khởi nghĩa chống Pháp, được dân chúng hưởng ứng mạnh mẽ, triều đình phong ông chức Quản cơ.
.
.
Sáng ngày 10-12-1861, Nguyễn Trung Trực cùng Phó quản binh Huỳnh Khắc Nhượng, Tán quân Nguyễn Học, Võ Văn Quang, hương thôn Hồ Quang Chiêu... với khoảng 150 Nghĩa quân, tổ chức cuộc phục kích đốt tàu L’ Esperance đang đậu tại Vàm Nhật Tảo (nay thuộc xã An Nhựt Tân, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An). Trận này Nghĩa quân đã diệt 17 tên Pháp và 20 cộng sự người Việt, chỉ có 8 người trốn thoát (2 lính Pháp và 6 lính Tagal tức lính Ma Ní là lính đánh thuê người Philippines). Lúc đó, viên sĩ quan chỉ huy tàu là trung úy hải quân Parfait không có mặt, sau khi hay tin Parfait đã dẫn quân đến đốt cháy nhiều nhà cửa của dân nơi vùng Nhật Tảo để trả thù.
.
.
Hòa ước Nhâm Tuất (1862), giao Pháp 3 tỉnh miền Đông. Nguyễn Trung Trực nhận chức Lãnh binh, đưa quân về giữ 3 tỉnh miền Tây, ông cho lập mật khu ở Sân Chim (tả ngạn sông Cái Lớn, huyện An Biên, Kiên Giang). Nghĩa quân dò biết được tình hình địch, vào lúc 4 giờ sáng ngày 16-6-1868, ông dẫn quân từ Tà Niên (thuộc huyện Châu Thành, Kiên Giang) đánh úp đồn Kiên Giang do trung úy Pháp là Sauterne chỉ huy. Kết quả, nghĩa quân chiếm đồn, tiêu diệt 5 sĩ quan Pháp, 67 lính, thu trên 100 khẩu súng, cùng nhiều đạn dược và làm chủ tình hình 5 ngày liền. Đây là lần đầu tiên, lực lượng Nghĩa quân đánh Pháp ngay tại trung tâm đầu não ở tỉnh.
.
.
Từ 2 chiến công lẫy lừng này, danh sĩ Huỳnh Mẫn Đạt đã cảm tác:
Hỏa hồng Nhật tảo oanh thiên địa
Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần
.
Nghĩa là: Lửa bừng Nhật Tảo vang trời đất.
Nghĩa là: Lửa bừng Nhật Tảo vang trời đất.
Kiếm tuốt Kiên Giang khiếp quỷ thần.
.
Ngày 18-6-1868, thiếu tá hải quân A. Léonard Ausart, đại úy Dismuratin, trung úy hải quân Richard, trung úy Taradel, Trần Bá Lộc và Tổng đốc Phương. Hùng hổ đem binh từ Vĩnh Long giải vây. Ngày 21-6-1868, Pháp phản công ác liệt, ông phải rút quân về Hòn Chông (Kiên Giang) rồi ra đảo Phú Quốc, lập chiến khu tại Cửa Cạn để chống giặc.
Ngày 18-6-1868, thiếu tá hải quân A. Léonard Ausart, đại úy Dismuratin, trung úy hải quân Richard, trung úy Taradel, Trần Bá Lộc và Tổng đốc Phương. Hùng hổ đem binh từ Vĩnh Long giải vây. Ngày 21-6-1868, Pháp phản công ác liệt, ông phải rút quân về Hòn Chông (Kiên Giang) rồi ra đảo Phú Quốc, lập chiến khu tại Cửa Cạn để chống giặc.
Pháp đem nhiều tàu chiến truy kích áp đảo, còn bắt mẹ của ông để uy hiếp, vì hiếu với mẹ và để bảo toàn sinh mạng nghĩa quân, ông tự ra nộp mình cho Pháp. Quân Pháp bắt giải ông về Sài Gòn.
.
Khi đại úy Pháp là Piquet hỏi cung, ông khảng khái trả lời:“Số phận tôi theo vận nước, tôi đã không thành công trong việc cứu nguy nước tôi, tôi chỉ xin một điều là hãy kết liễu đời tôi càng sớm càng tốt”.
Thống soái Nam kỳ hăm doạ và dụ hàng, ông cũng dõng dạc trả lời: “Ngươi phải biết chắc rằng, khi nào các ngươi trừ hết cỏ trên mặt đất, thì khi đó mới may ra trừ tiệt những người ái quốc của đất nước tôi”.
Dụ hàng không được, sáng ngày 27-10-1868, Pháp đem Nguyễn Trung Trực ra chợ Rạch Giá hành quyết, đông đảo đồng bào nhìn thán phục và nghẹn ngào! Ông yêu cầu Pháp:“Hãy mở trói, không bịt mắt để ta nhìn đồng bào và quê hương trước phút ra đi”. Rồi nhắc lại: “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây”.
Sau đấy, dân chúng thương tiếc vị anh hùng hy sinh vì dân tộc, nên lập đền thờ ông ở Kiên Giang. Vua Tự Đức sai hoàng giáp Lê Khắc Cẩn làm lễ truy điệu, đọc bài điếu do vua ngự bút:
.
Nguyên văn: Thái Bạch dịch:
Ký bi ngư nhân Giỏi thay người chài
Hùng tại quốc sĩ Mạnh thay quốc sĩ
Hỏa Nhựt Tảo thuyền Đốt thuyền Nhật Tảo
Đồ Kiên Giang lũy Phá lũy Kiên Giang
Địch khái đồng cừu Thù nước chưa xong
Thân tiên tự thỉ Thân sao đã mất
Hiệu khí cổ kim Hiệu khí xưa nay
Thử nhân nam tử Người nam tử ấy
Xích huyết hoàng sa Máu đỏ, cát vàng
Ô hô dĩ hy Hỡi ơi thôi vậy
Huyết thực thiên thu Ngàn năm hương khói
Chương nhữ trung nghĩa. Trung nghĩa còn đây.
.
Vua Tự Đức sắc phong ông làm Thượng Đẳng Linh Thần, thờ tại làng Vĩnh Thanh Vân, Rạch Giá, nơi ông hy sinh.
.
*- Thiết nghĩ: Nếu so sánh Nguyễn Trung Trực với “Từ Thứ qui Tào” (Từ Thứ bỏ Lưu Bị theo Tào Tháo) trong Tam Quốc Chí, thì Nguyễn Trung Trực của Việt Nam hào khí ngất trời, còn Từ Thứ của Tàu sống nhục với kẻ thù của mình. Mẹ Từ Thứ bị Tào Tháo bắt, Từ Thứ liền hàng Tào. Từ Mẫu giận con bỏ chỗ sáng theo về chỗ tối nên bà tự tử. Thế mà Từ Thứ chịu sống suốt đời theo Tào Tháo. Trong khi ấy, mẹ của Nguyễn Trung Trực cũng bị Pháp bắt để uy hiếp ông, vì hiếu với mẹ và để bảo toàn sinh mạng cho nghĩa quân, ông tự ra nộp mình cho Pháp. Giặc dụ hàng, ông lại bất khuất và khẳng khái nói: “Hãy kết liễu đời tôi càng sớm càng tốt”.
Người nông dân và chài lưới áo vải Nguyễn Trung Trực, với những chiến công chống giặc lẫy lừng. Những bậc khoa bảng đã có công lao to lớn với dân, với nước, mới dám sánh với ông. Còn bọn khoa bảng chỉ biết loè loẹt tự xưng là quân tử, để vinh thân phì gia, đấy chỉ là những con đom đóm lập loè trong đêm không thể sánh với ông là ánh sao sáng chói giữa nền trời bao la. Từ đấy, người được đồng bào ngưỡng mộ, là người thật sự lo nước thương dân, dấn thân cho tổ quốc chứ không phân biệt là thành phần nào trong xã hội.
.
Cảm phục: Nguyễn Trung Trực
.
Nguyễn Trung Trực, chí khí hăng say!
Son sắt, can trường đánh đuổi Tây!
Nhật Tảo đốt tàu, nghìn nghịt khói
Quân ta giết giặc, ngổn ngang thây
Kiên Giang giải phóng, rền trời đất
Dân chúng hoan hô, dội gió mây!
Tiết nghĩa, trung trinh lưu sử sách
Pháp trường dõng dạc, há lung lay!
.
Nguyễn Lộc Yên
.
.
Gửi ý kiến của bạn