Hôm nay,  

Chiêu Bài của TPP

10/5/201512:35:00(View: 5726)
Chiêu Bài của TPP
 
Joseph E. Stiglitz & Adam S. Hersch
 
Đỗ Kim Thêm dịch

Khi các nhà đàm phán và các bộ trưởng của Hoa Kỳ và 11 quốc gia khác trong Vành Đai Thái Bình Dương họp tại Atlanta đ nỗ lực đúc kết các chi tiết nhằm đổi mới Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (TPP), có một số phân tích nghiêm chỉnh đã cảnh báo là hiệp định mậu dịch và đầu tư khu vực lớn nhất trong lịch sử không phải là những gì như nó thể hiện.


Bạn sẽ nghe nhiều về tầm quan trọng của TPP trong “vấn đề tự do mậu dịch“. Thực tế cho thấy đây là một thỏa thuận để quản lý các mối quan hệ mậu dịch và đầu tư của các nước thành viên  - Và để làm được điều đó thoả thuận này nhân danh các nhóm lợi ích kinh doanh có áp lực mạnh nhất của mỗi nước. Bạn không nên lầm lẫn là từ những vấn đề chủ yếu  mà các nhà đàm phán vẫn còn đang mặc cả nhau, nên TPP không bàn về vấn đề ”tự do“ mậu dịch là chuyện hiển nhiên.  


New Zealand đã đe dọa sẽ ra khỏi thỏa ước với phương cách mà Canada và Hoa Kỳ quản lý mậu dịch trong các sản phẩm vsữa. Australia không hài lòng với phương cách mà Hoa Kỳ và Mexico quản lý mậu dịch các sản phẩm đường. Và Hoa Kỳ không hài lòng với cách quản lý mậu dịch của Nhật Bản vgạo. Các ngành công nghiệp này được hậu thuẫn bởi các nhóm lợi ích có quyền biểu quyết quan trọng ở nước của mình. Và đó chỉ là biểu hiện một phần nhỏ nhưng rõ nét trong các vấn đề rộng lớn hơn v nhng điều kiện để làm sao cho TPP sẽ thúc đẩy theo một chương trình nghị sự, nhưng thực sự là đi ngược với ý nghĩa của tự do mậu dịch.


Để bắt đầu, ta hãy xét đến những gì thỏa ước sẽ làm để mở rộng các quyền sở hữu trí tuệ đối với các tổng công ty dược phẩm, như chúng ta đã học được từ các phiên bản bị rò rỉ của các văn bản đang đàm phán. Nghiên cứu kinh tế cho thấy rõ có lập luận cho rằng quyền sở hữu trí tuệ thúc đẩy nghiên cứu là yếu nhất. Trong thực tế, có bằng chứng ngược lại: Khi Tòa án Tối cao tuyên bvbằng sáng chế của Myriad về gen BRCA là hiệu lực, điều này đã dẫn đến sự bùng nổ về canh tân mà kết quả là việc xét nghiệm tốt hơn với chi phí thấp hơn. Thật vậy, các quy định TPP sẽ hạn chế cạnh tranh công khai và làm tăng giá bán cho người tiêu dùng ở Mỹ và trên khắp thế giới - một đề tài đối nghịch với tinh thần t do mậu dịch.


TPP sẽ quản lý mậu dịch các dược phẩm thông qua một loạt các quy tắc dường như phức tạp và bí ẩn, nó thay đổi tùy theo các vấn đề như "liên kết bằng sáng chế", "độc quyền dữ liệu" và "sinh học". Kết quả là các công ty dược phẩm sẽ được phép gia hạn - đôi khi gần như vô thời hạn - độc quyền của mình về cấp bằng sáng chế thuốc một cách có hiệu quả, kéo theo việc đưa các chủng loại thuốc có giá rẻ ra khỏi thị trường, ngăn chặn các đối thủ cạnh tranh có khả năng tương đương về các mặt hàng sinh học trong việc du nhập các dược phẩm mới trong nhiều năm. Đó là cách mà TPP sẽ quản lý mậu dịch cho ngành công nghiệp dược phẩm, nếu Hoa Kỳ làm theo cách của mình.


Cũng tương tự như vậy, ta hãy xét đến việc Hoa Kỳ hy vọng gì trong việc sử dụng TPP để quản lý mậu dịch cho ngành công nghiệp thuốc lá. Trong nhiều thập niện, các công ty thuốc lá đặt cơ sở tại Hoa Kỳ đã sử dụng cơ chế tài phán cho các nhà đầu tư nước ngoài được tạo ra bởi các hiệp ước tương tự như TPP để chống lại các quy định nhằm kiềm chế tai họa y tế công cộng của việc hút thuốc


Thông qua những hệ thống giải quyết tranh chấp gia nhà đầu tư và nhà nước (ISDS), các nhà đầu tư nước ngoài đạt được tố quyền mới để khởi kiện chính phủ các nước trong các quy định trọng tài tư nhân có hiệu lực ràng buộc mà họ cho là làm giảm bớt lợi nhuận dự kiến trong các khoản đầu tư của họ.


Lợi ích của các công ty quốc tế cố thuyết phục là cơ chế tài phán ISDS là cần thiết để bảo vệ quyền sở hữu ở những nơi mà tinh thần trọng pháp và các tòa án khả tín còn thiếu. Nhưng lập luận đó là vô nghĩa. Hoa Kỳ đang tìm kiếm các cơ chế tương tự trong một thỏa thuận với một quy mô tương tự với Liên Âu, Hiệp ước Thương mại và Hợp tác Đầu tư Xuyên Đại Tây Dương (TTIP), mặc dù về phẩm chất của hệ thống pháp luật và tư pháp của châu Âu có ít vấn đề.


Để chắc chắn, các nhà đầu tư – cho dù quê hương của họ là ở bất cứ nơi nào - dành quyền bảo vệ trong các quy định về trưng thu hoặc phân biệt đối xử. Nhưng cơ chế ISDS đi xa hơn: Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho nhà đầu tư về những lợi nhuận dự kiến có thể và đã được áp dụng cho cả trường hợp quy định về việc không phân biệt đối xử và lợi nhuận đạt được do việc gây haị công cộng.


Tổng công ty trước đây gọi là Philip Morris hiện đang khởi tố các vụ như vậy đối với Australia và Uruguay (không phải đối tác TPP) có yêu cầu thuốc lá mang nhãn hiệu cảnh báo. Canada, do bị đe dọa của một vụ kiện tương tự, nên đã rút lui lại việc du nhập một loại nhãn cảnh báo có hiệu ứng tương tự tmột vài năm trở lại.


Đứng trước bức màn bí mật xung quanh các cuộc đàm phán vTPP, chuyện chưa rõ là liệu thuốc lá sẽ được loại trừ khỏi một số khía cạnh của cơ chế ISDS không. Dù bằng cách nào thì các vấn đề rộng lớn hơn vẫn còn tồn đọng là: quy định này đã làm khó cho chính phủ thực hiện các chức năng cơ bản của họ - là bảo vệ sức khỏe và an toàn của người dân, đảm bảo ổn định kinh tế và bảo vệ môi trường.


Ta hãy tưởng tượng những gì sẽ xảy ra nếu những quy định này đã được đưa ra thi hành khi các tác động gây chết người của chất amiăng đã được phát hiện. Thay vì đóng cửa các nhà sản xuất và buộc họ phải bồi thường cho những người đã bị nhiễm bệnh, nếu theo cơ chế ISDS, thì các chính phủ sẽ phải trả cho các nhà sản xuất không giết công dân của họ.


Người nộp thuế có thể bị liên hệ đến hai lần - lần đầu tiên họ phải trả tiền cho những thiệt hại về sức khỏe do amiăng gây ra, và sau đó cho các nhà sản xuất để bù đắp cho lợi nhuận bị mất khi chính quyền vào cuộc để quy định về một sản phẩm nguy hiểm.


Chuyện không gây cho ai ngạc nhiên là có một thoả ước quốc tế của Mỹ đưa ra một cơ chế mậu dịch để được quản lý chứ không phải là theo tinh thần tự do. Đó là những gì xảy ra khi tiến trình hoạch định chính sách không cho các bên có liên quan, không thuộc về lĩnh vực kinh tế, tham gia - chưa kể đến các đại biểu Quốc hội do dân bầu.



Nguyên tác: The Trans-Pacific Free-Trade Charade

http://www.project-syndicate.org/commentary/trans-pacific-partnership-charade-by-joseph-e--stiglitz-and-adam-s--hersh-2015-10


.
.

Reader's Comment
10/6/201511:08:13
Guest
Trong khối TPP thì VN là nước chỉ có một Đảng. Vậy nên rất thuận lợi và mang lại lợi ích cho . . . !
Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
Từ 20 năm qua (2004-2024), vấn đề hợp tác giữa người Việt Nam ở nước ngoài và đảng CSVN không ngừng được thảo luận, nhưng “đoàn kết dân tộc” vẫn là chuyện xa vời. Nguyên nhân còn ngăn cách cơ bản và quan trọng nhất vì đảng Cộng sản không muốn từ bỏ độc quyền cai trị, và tiếp tục áp đặt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh “làm nền tảng xây dựng đất nước”...
Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa. Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.
Việt Nam và Trung Quốc đã ký 14 Văn kiện hợp tác an ninh Chính trị, Kinh tế-Thương mại và Văn hóa-Báo chí trong chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của Tổng Bí thư Tô Lâm từ ngày 18 đến 20/08/2024. Trong số này, Văn kiện kết nối và thiết lập 3 Tuyến đường sắt giữa hai nước được gọi là “anh em” đã giúp Trung Quốc liên thông ra Biển Đông và bành trướng thế lực kinh tế...
Tại Campuchia, kênh đào Phù Nam Techo, trị giá 1,7 tỷ USD sẽ kết nối Phnom Penh và Vịnh Thái Lan, tượng trưng cho niềm tự hào dân tộc, an ninh và kết nối thương mại quốc tế. Người ta có thể cảm thấy như thế qua lời tuyên bố của Thủ tướng Campuchia Hun Manet và của ông Hun Sen, trong cương vị cố vấn, người đã chuyển giao quyền lực từ cha sang con vào năm ngoái...
Danh từ được tác giả dùng trong bài này không phải là danh từ theo tự loại mà là một thuật ngữ của Việt Cộng. Thuật ngữ Việt Công hay là danh từ Việt Cộng là những thuật ngữ, những từ được dùng trong nước dưới chính quyền Cộng sản Việt Nam. Ở trong nước người ta không dùng từ “Việt Cộng” mặc dầu Việt Cộng chỉ có ý nghĩa là Cộng Sản Việt Nam chớ không có nghĩa gì khác. Phải nói rõ ràng và dài dòng như vậy để tránh hiểu lầm và hiểu sai. Những danh từ đề cập trong bài viết này đa số là những danh từ kinh tế, vì chủ đề của bài viết là kinh tế, phân tích những ván đề kinh tế, nhận định về kinh tế chớ không phải chính trị, mặc dầu kinh tế không thể tách rời khỏi chính trị, xuất phát từ chính trị và tác động trở lại đời sống của mỗi con người chúng ta.
“Tôi hơi chậm hiểu lại rất chóng quên nên dù đã lê lết qua hơi nhiều trường ốc (trong cũng như ngoài nước) nhưng trình độ học vấn và kiến thức cũng chả̉ tới đâu, vẫn chỉ ở mức làng nhàng. Nói tóm lại là thuộc loại “xoàng”! Ơ! “Xoàng” thì đã sao nhỉ? Cũng không đến nỗi trăng/sao gì đâu, nếu tôi biết điều (biết chuyện – biết thân – biết phận) hơn chút xíu. Khổ nỗi, tôi lại cứ tưởng là mình cũng thuộc loại đầu óc trung bình (hoặc chỉ dưới mức đó không xa lắm) nên ghi danh học – tùm lum/tùm la – đủ thứ phân khoa: Triết Lý, Tâm Lý, Xã Hội, Nhân Chủng …
Một bài viết ngay sau khi được bầu vào chức Tổng Bí thư đảng CSVN cho thấy ông Tô Lâm đã hiện nguyên hình một người giáo điều, bảo thủ và hoài nghi trong “hợp tác quốc tế” với các nước. Trước hết ông cáo giác: “Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.” Lời tố cáo này không mới vì chỉ “nói cho có” và “không trưng ra được bằng chứng cụ thể nào”, giống hệt như những người tiền nhiệm...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.