Hôm nay,  

Vũ Hoàng Chương: Từ Cảm Thức Khổ Lụy Đến Mộng Tưởng Niết Bàn Trong Bài Thơ “Nguyện Cầu”

9/5/201500:00:00(View: 7670)
blank
Chân dung Vũ Hoàng Chương do Tạ Tỵ vẽ.

“Ta còn để lại gì không?”

Khi thi sĩ dùng chữ “ta” mà không dùng chữ “tôi” thì đã hàm ý tôi và mọi người khác có chung cảm nghĩ: chúng ta sở hữu cái gì trong đời? một thân thể, một linh hồn, một gia đình, một tài sản, một danh tiếng, một tổ quốc? cái “ta” hẳn phải là một cái gì khác vật chất, là một chủ thể đối diện và đối nghịch với khách thể, cái “không ta”. Cái khách thể đó còn hay mất đều tác động đến tâm của ta.

Ta hãnh diện, kiêu ngạo vui sướng vì sở hữu được nó, ta đau buồn, thất vọng, uất ức,xấu hổ vì mât nó. Một người yêu phản bội, một đứa con bỏ nhà đi, một tài sản bị tich thâu, một danh tiếng bị bôi bẩn, một tổ quốc bị xâm lăng…. Đúng là cả đời sống của ta lệ thuộc vào cái ta sở hữu. Nhiêu trường hợp cái ta chủ thể trở thành nô lệ cho cái vật ta sở hữu, như một người thấy căn nhà mình cháy lao vào biển lửa chỉ để tìm cho được túi vàng cất trong tủ khóa kỹ, chưa lấy được vàng thì thân mình đã bị thiêu thành tro.

Nhà Phật dùng từ ngữ “Ngã, Ngã sở” để diễn tả cái ta và cái “ta có” gắn liền với nhau không rời. Một đời lao khổ, ta đã có được cái gì, đã mất mát cái gì, đã mất bao nhiêu lần cái ta sở hữu? Câu hỏi của thi sĩ tự đặt cho chính mình, và cho chúng ta.

“Kìa non đá lở này sông cát bồi”

Cái ta có hôm nay giờ phút này thi mai đã mất: tình yêu, danh vọng, của cải, may là còn thân ta để mà phiền não, rên siết, oán trách. Thái độ thường là tiêu cực: chửi đời, oán người, trách trời mà ít khi thấy tự trách mình. Nhà Phật dùng từ ngữ “vô thường” để diễn tả cảnh bể dâu biến đổi.

“Lang thang từ độ luân hồi”

Thi sĩ nhìn bằng tâm trí để thấy hành trình của cái “ta từ thuở vô thủy vô chung nào mang nhiều tướng khác nhau. Nhà Phật gọi những tướng hay những thân khác nhau mà ta khoác vào là những dạng chúng sinh ở vào những cảnh giới khác nhau xoay vần mãi không thoát ra được. Lang thang, vì không có nhà nhất định để cư ngụ lâu dài, vì trải qua những kiếp súc sinh, những kiếp người mà muôn người muôn phận khác nhau. Cụm từ “từ độ luân hồi” bao hàm ý trước độ luân hồi thì ta không lang thang, nghĩa là ta an trụ ở một tâm cảnh lặng lẽ sáng suốt bình yên.

“U minh nẻo trước, xa xôi dặm về”

Ta giống như kẻ lạc đường, giữa hai ngả không biết đi ngả nào. Nhìn phía tây thì tối đen, nhìn phía đông thì heo hút. Thi sĩ dùng chữ “dặm về” để tượng trưng cho cái gì? Về quê, về nhà mình xưa kia, hay về quán trọ? Tâm ta tan nát là hiện trạng của cảnh đời, ước mong tìm lại cái tâm an bình hồn nhiên. Nhà Phật dùng từ ngữ “vọng tưởng” và “chân tâm” để chỉ hai ngả đường mà ta phải quyết định lựa chọn. Kinh Thủ Lăng Nghiêm mô tả cái thế lưỡng nan của con người có ý thức về thân phận mình. Tâm ta mà để cho “phan duyên”, tức là rong ruổi đuổi theo sáu trần cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì càng đuổi theo càng lạc, càng xa dặm về tính giác bản nhiên, thế mà đời sống thực sự là phải xoay mình theo sáu trần để sống còn.

“Trông ra bến hoặc bờ mê”

Nhà Phật cho nhận thức của con người về ngoại giới qua năm căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân là thức sai lầm, kinh điển gọi là kiến hoặc, bởi vì cấu tạo mắt của con người chẳng hạn khác với mắt của loài cú, loài cá, loài rắn nên cùng một đối tượng mà mỗi loài nhận thức khác; mỗi loài tùy chánh báo của thân xác mình mà tranh đấu sinh tồn trong y báo là hoàn cảnh sống. Như cấu tạo mắt của con người cần có ánh sáng mặt trời hay đèn đuốc thì mới nhìn thấy sự vật, nhưng mắt con cú không cần ánh sáng vẫn thấy rõ sự vật.

Còn nội giới là tâm cảnh tạo thành bởi những ảnh tượng ký ức, những kinh nghiệm sống tích lũy. Nội giới đó trôi chảy miên man không lúc nào dừng tạo thành những cảm nghĩ triền miên không lấy đâu làm bến bờ chân thực, nhà Phật gọi là tư hoặc.

Thi sĩ đã phản tỉnh về bờ mê bến hoặc mà tâm con người chìm đắm, không biết đâu là đường giải thoát.

“Nghìn thu nửa chớp bốn bề một phương”

Không đến một, mà chỉ nửa cái chớp mắt thì một ngàn năm đã qua đi, huống hồ 80 năm đời người. Đó là chiều thời gian. Còn không gian thì sao? Tưởng như đông, tây, nam,bắc mà hầu như chỉ có một vị trí là cái thân trơ trọi giữa cái bao la của trời đất. Câu thơ này làm toát lên cái heo hút mỏng manh cô quạnh của thân phận con người.

“Ta van cát bụi bên đường
Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này”

Gót chân thi sĩ đã nhuốm bao nhiêu cát bụi đường đời, nhưng hai câu thơ này hàm ý cái tâm của ta vốn dĩ là lặng lẽ nhưng đã trở nên náo động, vốn dĩ là sáng suốt nhưng đã trở nên mờ tối, vốn dĩ là vô tận vô biên mà đã trở nên hạn hẹp, vốn dĩ là sáng tạo mà đã trở nên cùn nhụt, vốn dĩ là từ bi hỷ xả mà đã trở nên hung ác, ti tiện, chấp nhất. Vì bụi gì bám vào? bụi nghiệp, bụi niệm, bụi vô minh. Nhà Phật thường nói “Một niệm bất giác..ô trược nổi lên”. Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói về ngũ trược làm mờ đục chân tâm.

Thi sĩ đã mường tượng thấy cái nghiệp dù thiện hay bất thiện đều làm tâm tính bản nhiên mờ tối. Thi sĩ đã cảm thấy cái ta cần vượt qua thiện ác mới trở về được tính giác uyên nguyên.

“Để ta tròn một kiếp say
Cao xanh liều một cánh tay níu trời”

Nhưng thi sĩ cảm thấy bất lực nên mới “van xin” cái xấu đừng xẩy ra. Thi sĩ lâm vào một tâm thức đau khổ (unhappy consciousness) vì thấy mình treo lơ lửng giữa ý hướng vươn tới cái vô hạn và cái thực tế kiếp mệnh hữu hạn, giữa ước vọng giải thoát và thực tế đắm chìm trong luân hồi. Cảm thức bất lực vì khổ lụy nặng nề khiến thi sĩ muốn tìm quên trong men rượu, vì chỉ trong lúc say mới dám liều nhảy ra khỏi vòng vây của trùng trùng duyên nghiệp bao đời bao kiếp.

“Nói chi thua được với đời
Sá chi những tiếng ma cười đêm sâu”

Cái ngã ẻo lả của thi nhân làm sao chống chọi được những cái ngã hung bạo chung quanh? Cuộc tranh đua chủ-nô sinh tử giữa chợ đời đẩy thi nhân vào men say, vào thơ ca vô vọng.

Nhưng loài ma ti tiện cười trên sự im lặng của thi nhân. Nếu làm ngơ coi như không có thì giống ma ganh ghét tỵ hiềm lại càng dồn thi nhân vào chỗ bế tắc, là nhà tù, là cái chết. Mỉa mai thay, giống ma này lại hiện thân cũng là những “nhà thơ” tự nguyện trở thành những đao phủ.

“Tâm hương đốt nén linh sầu”

Nhà Phật nói đến năm thứ tâm hương mà người tu theo Phật cần “thắp” từng giây từng phút: giới hương, định hương, tuệ hương, giải thoát hương, giải thoát tri kiến hương. Vậy là trái hẳn với những bó nhang làm bằng bột gỗ mà người ta đốt nghi ngút trong chùa để cầu danh cầu lợi, cầu phước. Thi nhân hiểu đạo Phật sâu xa nên dùng từ ngữ “tâm hương”. Tuy nhiên đã đốt tâm hương thì sao còn có sầu muộn trong đó được, dù tình sầu của thi sĩ có cao quý linh thiêng thế nào đi nữa.

Hay có lẽ thi sĩ thấy mối “linh sầu” trong thâm tâm mình bí nhiệm quá vượt qua những sầu muộn đời thường. Có lẽ mối linh sầu chỉ nảy sinh vào lúc “: một niệm bất giác làm cái tròn đầy nguyên thủy bắt đầu rạn nứt thành hai”, cái giây phút “thái cực sinh lưỡng nghi”, cái giây phút rạn nứt “cái bất nhị” mở đầu cho kiếp trược kéo theo một chuỗi luân hồi đầy ắp phiền não. Cảm thức của thi sĩ thâm trầm cao viễn quá.

“Nhớ quê dằng dặc ta cầu đó thôi”

Thi nhân mơ hồ nhìn thấy một quê hương để người giang hồ lữ thứ nhớ nhung và tìm đường về. Đó không phải là quê hương “địa lý” như trong ca khúc “Hương Xưa” của nhạc sĩ Cung Tiến. Đây là quê hương tâm linh tức là tính giác thường trụ sáng suốt lặng yên đối với cái tâm tan nát phân tán thành sáu thức bị sáu cảnh trần lôi kéo. Giống như mặt trăng trong thau nước lặng yên thì tròn đầy sáng láng lặng yên. Khi quậy thau nước thì mặt trăng tan nát loạn động, vỡ ra trăm nghìn mảnh sáng lăng quăng. Từ nỗi buồn ta mơ về niềm vui, từ niềm vui trần thế mau tàn ta mơ về niềm vui vĩnh cửu, từ cái vui trong náo động ta mơ về cảnh vui trong yên lặng. Cảnh vui giữa bàn tiệc rượu, giữa tiếng nhạc kích động của vũ trường không thể so sánh được với cảnh vui trong thiền định.

“Đêm nào ta trở về ngôi”

Nhà Phật nói về ba ngôi tam bảo Phật Pháp Tăng, là Tính Giác uyên nguyên diệu minh nằm ngay trong mổi con người, là Trí Bát Nhã phá những tà kiến, là thân tâm trong sạch mà mỗi chúng sinh cần tu luyện để “trở về nương tựa”. Sự trở về đâu phải chỉ vào ban đêm? Nhưng thi nhân vẫn còn trong mơ mộng nên coi ban đêm là thời điểm thich hợp cho tâm quay về hơn là ban ngày. Có thể thi sĩ dùng chữ “đêm” để ngụ ý sự tĩnh mịch là thuận duyên cho tâm giác ngộ.

“Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian”

Khi đã nhập vào ngôi Tam Bảo thì hồn thơ sẽ không còn vướng lụy vào những cảnh đời ô trược, những vũ trường điên đảo bóng giai nhân, những biến động lịch sử xã hội làm đổ vỡ những gia đình, những cuộc chiến tranh làm tan nát tình yêu, làm thui chột tuổi thanh xuân.

“Một khi đã nín cung đàn”
Nghĩ chi còn mất hơi tàn âm thanh”

Tay ta không bấm dây đàn thì âm thanh làm sao nổi lên được. Câu thơ này là biểu tượng thật sâu của Phật pháp. Nếu tâm ta không phan duyên vướng vào sáu trần cảnh: sắc, thanh, hương, vị xúc, pháp thì tâm làm sao có thể lạc vào sai lầm được. Chính sáu căn mắt, tai, mũi lưỡi, thân, ý duyên theo sáu trần mà ta đánh mất chân tâm hay, nói theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm, sáu căn làm mai mối cho giặc vào cướp mất của báu trong nhà là tâm tính bản nguyên thường trụ, yên lặng, sáng suốt, tức là tính vô lượng quang, vô lượng thọ của chân tâm.

Mười tám câu thơ của thi sĩ Vũ Hoàng Chương quyện lại chỉ còn một ý, là bi kịch của con người đứng giữa hai ngã: khổ lụy trần ai với đầy cám dỗ của trần cảnh và ước mơ Niết bàn giải thoát, bi kịch của người bị lún vào vũng bùn, càng cố nhoi lên thì càng bị níu xuống.

Nhưng ý thức về bi kịch là mở đầu cho bước trở về.

Thử đối chiếu câu thơ “Nhớ quê dằng dặc ta cầu đó thôi” với bài kệ trích trong tác phẩm “Khóa Hư Lục” của Vua Trần Thái Tông (1218-1277):

Lưỡi vướng vị ngon, tai vướng tiếng
Mắt theo hình sắc, mũi theo hương
Lênh đênh làm khách phong trần mãi
Ngày hết quê xa vạn dặm đường

Tâm cứ phan duyên vào trần cảnh mãi không dừng thì càng xa tính giác uyên nguyên lặng lẽ, thường còn, sáng láng đối nghịch với cái náo động, tàn lụi, tối tăm của vọng tâm.

Trong tác phẩm “Việt Nam Phật Giáo Sử Luận”, trong mục “Nhu Yếu Tỉnh Thức của Chương X viết về Vua Trần Thái Tông, tác giả Nguyễn Lang đã viết về tư tuỏng nhà vua như sau: “Toàn bộ sáng tác của Thái Tông mang tính chất nhu yếu của một tâm hồn muốn luôn luôn tự đánh thức mình dậy trong cuộc đời, không để rơi vào tình trạng sống say chêt mộng... Vua muốn vươn tới và tự nhủ đang tự đánh mất mình trong những thế giới hình sắc, thanh âm, hương vị và cảm xúc của hưởng thụ”

Nhưng tính giác đó ở ngay trong tâm mình thì sao gọi là “xa dằng dặc”, “xa vạn dặm”?

Bởi vì từ vọng tâm đến chân tâm có tới mười đại dương ngăn trở mà Kinh Thủ Lăng Nghiêm gọi là Mười Tập Nhân hay Mười Thói Quen kết thành khối từ bao kiếp. Đó là thói quen dâm dục, thói quen tham lam, thói quen ngã mạn, thói quen nóng gận, thói quen giả dối, thói quen lừa gạt, thói quen thù oán, thói quen ác kiến hay tranh cãi, thói quen vu vạ, thói quen kiện thưa. Mười tập nhân đó là mười đại dương phải bơi qua, mười dãy núi phải trèo qua, mười bãi sa mạc phải băng qua.

Thi sĩ mất ngày mùng 6 tháng 9 năm 1976, đến nay là giỗ thứ 39 của ông. Chúng tôi mạo muội viết vài trang, tưởng như đang “đốt nén linh sầu” để tưởng niệm thi sĩ. Về mặt tuổi đời, thi sĩ ngang tuổi với thân phụ của chúng tôi; về mặt học hành, thi sĩ ngang với các vị thầy của chúng tôi thời trung học như thầy Vũ Khăc Khoan. Thi sĩ đã từng dậy Ban C Văn Chương ở trường trung học Chu Văn An Sài Gòn những năm 1957-1960. Nếu có những điều gì trong bài viết không đúng với ý thầy mà thầy muốn gởi gấm qua bài thơ “Nguyện Cầu”, thì xin thầy cứ coi đây là một bài tập làm văn của học trò.

Đào Ngọc Phong

Westminster, CA mùng 6 tháng 9 năm 2015

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ngày 1 tháng 5 năm 2025, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump trong lúc ban hành sắc lệnh hành pháp thành lập Ủy Ban Tổng Thống Về Tự Do Tôn Giáo đã nói rằng, “Họ nói tách rời nhà thờ và nhà nước… Tôi nói, ‘Được rồi, hãy quên chuyện đó một lần đi’,” theo bản tin của Politico được đăng trên trang www.politico.com cho biết. Lời phát biểu của TT Trump đã mở ra sự tranh luận về sự tách biệt giữa nhà thờ và nhà nước mà vốn được Hiến Pháp Hoa Kỳ công nhận trong bối cảnh Tòa Bạch Ốc gia tăng sự nhiệt tình đối với Thiên Chúa Giáo, theo Politico. TT Trump ngày càng dựa vào đức tin Thiên Chúa Giáo qua việc thiết lập Văn Phòng Đức Tin Bạch Ốc tại phòng West Wing, mời các mục sư vào Phòng Bầu Dục và trong các cuộc họp Nội Các, và ban hành các sắc lệnh hành pháp để xóa bỏ “khuynh hướng chống Thiên Chúa Giáo” trong chính quyền. Mối quan hệ giữa tôn giáo và chính trị xưa nay vốn phức tạp.
Hermann Rorschach là một bác sĩ tâm thần và nhà phân tâm học. Ông nổi tiếng về phát minh ra một bài kiểm tra tâm lý qua những hình ảnh tạo ra ngẫu nhiên từ các vết mực (inkblot.) Một người được yêu cầu mô tả những gì họ nhìn thấy trong hình ảnh do những vết mực không rõ ràng kết thành. Bác sĩ Rorschach tin rằng những hình ảnh được tạo nên từ vết mực có thể bộc lộ đặc trưng bí mật trong hành vi lẫn tình cảm của con người. Bài trắc nghiệm khách quan này thường xuất hiện trong văn hóa đại chúng và thường được mô tả như một cách để tiết lộ những suy nghĩ, động cơ hoặc mong muốn vô thức của một người.
Quyền lực là khả năng khiến người khác làm những gì bạn muốn. Điều đó có thể được thực hiện bằng cách cưỡng ép ("gậy gộc"), thanh toán ("cà rốt") và thu hút ("mật ong"). Hai phương pháp đầu tiên là dạng quyền lực cứng, trong khi lực thu hút là quyền lực mềm. Quyền lực mềm phát triển từ văn hóa của một quốc gia, các giá trị chính trị và chính sách đối ngoại của nó. Trong ngắn hạn, quyền lực cứng thường vượt trội hơn quyền lực mềm. Nhưng về lâu dài, quyền lực mềm thường chiếm ưu thế. Joseph Stalin đã từng hỏi một cách chế giễu, "Đức Giáo hoàng có bao nhiêu sư đoàn?" Nhưng triều đại giáo hoàng vẫn tiếp tục cho đến ngày nay, trong khi Liên Xô của Stalin đã biến mất từ lâu.
Câu hỏi đó thằng nhỏ hỏi mỗi ngày mỗi ngày mỗi ngày, khi đói khát, khi bị đánh đập cấu nhéo, khi phơi trần ra dưới nắng mưa. Khi nó nằm trên mặt đường và kêu khóc khản giọng. Nó hỏi vào đám đông lướt qua nó, hỏi ai đó dừng chân cho nó (chính xác là cho những kẻ chăn dắt nó) chút tiền lẻ. Nó hỏi những kẻ bắt nó nằm lăn lóc kêu khóc trên đường để kiếm tiền, để nhởn nhơ ăn mòn tấm thân bé nhỏ non nớt của nó.
Một đứa trẻ chỉ nên có ba con búp bê, năm cây bút chì, giá trị chưa đến $20. Donald Trump có một phi cơ riêng sơn tên của ông ta trên đó. Với tư cách là tổng thống, hiện ông ta có hai chuyên cơ, Không Lực Một và một chiếc nhỏ hơn để phù hợp với những nơi có sân bay nhỏ, chưa kể chiếc trực thăng Marine One. Đó là ba chiếc phi cơ Trump sở hữu. Đó cũng là con số búp bê mà Trump đề nghị một đứa trẻ ở Mỹ nên có.
Mặc dù chỉ mới ba năm trôi qua kể từ khi bà Merkel rời nhiệm sở, nhưng thế giới đã thay đổi quá nhiều đến mức mà chức thủ tướng của bà đã được cảm thấy như nó thuộc về một thời đại khác. Cuốn hồi ký mới của bà cho thấy bà bình tâm với những quyết định đã đưa ra, bao gồm cả những quyết định bị phê phán nghiêm khắc nhất.
“Việc cắt giảm chăm sóc sức khỏe để trả tiền cho các khoản giảm thuế sẽ là sai về mặt đạo đức và tự sát về mặt chính trị.” TNS Josh Hawley (Cộng Hòa, Missouri)
Từ năm 1949, tháng Năm được chọn là Tháng Nhận Thức Về Sức Khỏe Tâm Thần (Mental Health Awareness Month – MHAM) ở Mỹ. Đây là tháng mang ý nghĩa kêu gọi cùng nâng cao nhận thức, giảm bỏ kỳ thị và thúc đẩy bảo vệ sức khỏe tâm thần. Theo phúc trình năm 2024 của tổ chức Mental Health America ở Alexandria, Hoa Kỳ thật sự đang trong cuộc khủng hoảng sức khỏe tâm thần. Cứ năm người trưởng thành ở Mỹ thì có trên một người đang sống chung với bệnh tâm thần, và hơn một nửa không được điều trị. Gần 60 triệu người lớn (23.8%) mắc bệnh tâm thần trong năm 2024. Gần 13 triệu người lớn (5.04%) có ý định tự tử.
Chiến dịch cắt giảm chi tiêu của chính quyền Trump, vốn đã ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực từ nghệ thuật đến nghiên cứu ung thư, nay còn bao gồm cả nỗ lực thực hiện mục tiêu lâu dài của Đảng Cộng Hòa: chấm dứt hoàn toàn nguồn tài trợ liên bang cho hai hệ thống truyền thông phục vụ công chúng lớn nhất nước Mỹ: NPR và PBS. Hiện có khoảng 1,500 đài phát thanh và truyền hình độc lập liên kết với NPR và PBS trên khắp Hoa Kỳ, phát sóng các chương trình nổi tiếng như Morning Edition, LAist, Marketplace, PBS NewsHour, Frontline và Nova... Theo dữ liệu từ các hệ thống này, có khoảng 43 triệu người nghe đài công cộng hàng tuần, và mỗi năm có hơn 130 triệu lượt xem đài PBS.
Ngày 30.04.1975 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử cận đại của Việt Nam. Nhưng năm mươi năm sau nhìn lại, dân tộc Việt oai hùng, như vẫn thường tự nhận, đã không có đủ khôn ngoan để ngày chiến tranh chấm dứt thành một cơ hội đích thực để anh em cùng dòng máu Việt tìm hiểu nhau, cùng chung sức xây dựng đất nước.Tiếc thay, và đau thay, cái giá tử vong cao ngất của hơn 2 triệu thường dân đôi bên, của hơn 1triệu lính miền Bắc và xấp xỉ 300.000 lính miền Nam đã chỉ mang lại một sự thống nhất địa lý và hành chính, trong khi thái độ thù hận với chính sách cướp bóc của bên thắng trận đã đào sâu thêm những đổ vỡ tình cảm dân tộc, củng cố một chế độ độc tài và đẩy hơn một triệu người rời quê hương đi tỵ nạn cộng sản, với một ước tính khoảng 10% đã chết trên biển cả.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.