Hôm nay,  

Về Lại Camp Pendleton

12/05/201500:00:00(Xem: 7586)

Lái xe trên Xa lộ 5 từ Quận Cam xuống San Diego, trên đường có bảng tên và bảng chỉ lối vào Camp Pendleton, là căn cứ thuỷ quân lục chiến Mỹ có chiều dài hơn 20 dặm.

Đối với người Mỹ gốc Việt, đặc biệt với nhiều người ở Quận Cam, Camp Pendleton là một cái tên gợi nhớ vì trong căn cứ này vào cuối tháng 4/1975 những lều trại đầu tiên được gấp rút dựng lên để đón người tị nạn vào Hoa Kỳ. Đây đã là nơi tạm trú của 50 nghìn người, hầu hết đến từ Nam Việt Nam và một số ít từ Campuchia. Những người Việt được đưa đến đây là trong số 130 nghìn người đã rời khỏi quê hương khi quân cộng sản tiến vào Thủ đô Sài Gòn ngày 30/4/1975 đưa đến việc chính quyền Việt Nam Cộng hòa đầu hàng.

Khi đó, người Việt di tản khỏi Việt Nam bằng máy bay hay bằng thuyền bè được đưa đến Philippines, đảo Guam, đảo Wake, cùng lúc chính phủ Mỹ mở ra bốn trại để đón người tị nạn vào nội địa là Camp Pendleton ở California, Fort Chaffee ở Arkansas, Eaglin Air Force Base ở Florida và Indiantown Gap ở Pennsylvania.

Tôi rời Việt Nam chiều 29/4/1975. Hành trình đến Mỹ đã qua các nơi: một tuần neo ngoài biển Singapore, 6 tuần trên Grande Islands trong căn cứ Subic Bay của hải quân Mỹ ở Philippines, một tuần ở Guam và hơn một tháng ở Camp Pendleton.

Đầu tháng 8/1975 tôi rời Camp Pendleton, theo gia đình ông anh họ là thẩm phán Trần An Bài ra định cư tại thành phố Berkeley ở miền Bắc California.

blank
Khu ba-rắc nay vẫn còn. (ảnh Bùi Văn Phú)

Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi tình nguyện gia nhập Peace Corps và được gửi sang Togo, châu Phi dạy học. Năm 1986 tôi về Đông nam Á làm việc cho Cao ủy Tị nạn nên đã trở lại thăm Singapore và Subic Bay vào cuối thập niên 1980.

Bốn mươi năm qua chưa về Guam thăm Asan hay về lại Camp Pendleton. Đã nhiều lần lái xe trên Xa lộ 5, nhìn thấy căn cứ của thủy quân lục chiến rộng lớn bên triền đồi, nhưng chưa có dịp ghé thăm, vì e ngại ra vào cơ sở quân sự có khó khăn, cần giấy phép.

Cuối tháng Tư vừa qua tôi đã về lại nơi mình đầu tiên đặt chân vào đất Mỹ cách đây bốn mươi năm. Chỉ hai vợ chồng tôi tìm đến chỗ đã từng là lều trại vào năm 1975.

Đúng ra sẽ có hàng nghìn người cũng đến trong một sinh hoạt tưởng niệm 30/4, nhưng ban tổ chức phía người Việt đã quyết định hủy chương trình tại đây vì không được phép hát quốc ca và chào quốc kỳ Việt Nam Cộng hòa cũ.

Thất vọng khi hay tin chương trình họp mặt được dời về địa điểm mới trong khu vực Little Saigon, nhưng tôi quyết định vẫn về thăm lại trại nên đã lên mạng tìm điện thoại, email để hỏi việc xin giấy vào căn cứ quân sự ra sao.

Các cơ quan điều hành trại tôi hỏi, khi nhắc đến sự kiện người tị nạn Việt đã đến đây 40 năm trước thì có người biết, người không. Khi hỏi về khu lều trại tị nạn cũ, không ai biết ở đâu trong căn cứ. Tất cả đều nói để được vào căn cứ chỉ cần bằng lái xe hay hộ chiếu. Vào cổng chính sẽ có thông tin hướng dẫn.

blank
Tác giả mặc áo mầu xanh biển, ngồi bên phải, chụp hình kỉ niệm với bạn trong Camp Pendleton năm 1975. (ảnh Bùi Văn Phú)

Sáng sớm thứ Bảy 25/4, từ vùng Vịnh San Francisco chúng tôi bay xuống nam California rồi mướn xe lái đi Camp Pendleton.

Trên đường, ghé phố Bolsa ăn sáng. Little Saigon ngập bóng cờ vàng, cờ hoa. Bốn mươi năm trước nơi đây còn là những cánh đồng cây trái.

Vào quán phở, gặp một bác mặc áo thun vàng trước ngực có in hình trống đồng và chim lạc bên hàng chữ đỏ “Commemorating 40 Years of Vietnamese Americans: Journey to Freedom & Beyond - Tưởng niệm 40 Năm Hành trình đến Tự do và Vươn tới” là chủ đề của buổi lễ dự định được tổ chức tại Camp Pendleton.

Muốn mua một áo làm kỉ niệm, mấy bác chỉ cho nơi bán gần tiệm phở. Tôi cũng hỏi thăm từ đây đến Camp Pendleton bao xa. Một bác cho biết quãng đường là 21 dặm và cũng nói chương trình đã bị hủy bỏ như tôi biết.

blank
Tờ giấy tác giả vẫn còn giữ với số trại khoanh tròn và số lều của một bạn quen. (ảnh Bùi Văn Phú)

Hành trình tìm về trại tị nạn xưa của tôi tưởng dễ, nhưng không.

Từ Little Saigon, lái xe trên Xa lộ 5 gần một giờ đồng hồ thì đến thành phố Oceanside, theo bảng chỉ đường dẫn vào cổng chính Camp Pendleton. Anh lính gác hỏi tôi đi đâu. Tôi nói muốn đến nơi ngày xưa là trại tị nạn cho người Việt. Anh nói chương trình đã hủy bỏ. Tôi trả lời có biết, nhưng vẫn muốn ghé lại vì đã sống ở đó vào năm 1975. Anh yêu cầu cho xem bằng lái xe. Tôi đưa cho anh và hỏi đường. Anh nói không biết, cứ vào trong sẽ có thông tin hướng dẫn.

Không ngờ việc vào một căn cứ quân sự lại dễ dàng đến thế. Vào trong thấy những cửa hàng, siêu thị và một bệnh viện cao tầng. Chắc chắn đây không phải là khu vực trại tị nạn cũ vì quá gần với xa lộ và thành phố.

Vào sâu hơn là những cơ sở huấn luyện quân sự. Đường dẫn lên núi, hai bên là nhà kho, thỉnh thoảng có khu gia binh.

blank
Lời bài hát “Còn chút gì để nhớ” của Phạm Duy được tác giả chép lại ngày 3/7/1975 khi đang sống trong trại. (ảnh Bùi Văn Phú)

Không thấy bảng hướng dẫn chỉ đường đến trại tị nạn cũ hay tượng đài kỷ niệm mà vài hôm trước tôi thấy trên báo Việt ngữ có đăng hình, đứng cạnh tượng là những người cầm cờ Hoa Kỳ và cờ Việt Nam Cộng hòa. Lúc tôi rời trại, tượng sắp hoàn thành, còn mầu xi-măng. Trong ảnh mới nhất tượng có mầu trắng.

Ghé vào tiệm McDonald trong căn cứ. Hỏi một người lính già, hỏi một anh lính trẻ cũng không ai biết gì về lều trại 40 năm trước hay về tượng đài.

Anh lính trẻ cho chút hy vọng khi anh nói nếu tiếp tục đi vào sâu hơn, chừng mươi phút lái xe sẽ thấy một bảo tàng. Ở đó sẽ có thông tin tôi muốn tìm.

Đến nơi, Mechanized Museum đóng cửa. Chung quanh có súng đạn, xe tăng được trưng bày.

Tôi trở ra. Vào PX trong khu gia binh tìm mua bản đồ. Chị bán hàng nói phải ra gần cổng chính, vào cửa hàng lớn MCX mới có bản đồ căn cứ. Tôi hỏi có biết nơi đặt tượng đài kỉ niệm người tị nạn, chị không biết nhưng rồi giới thiệu tôi cho một người lớn tuổi. Ông chỉ đường đến bệnh viện hải quân cũ, nay không còn xử dụng. Tôi mừng khi nghe được hai chữ “Naval Hospital” vì còn ghi trong kí ức. Đây là nơi trong thời gian ở trại tôi đã có một lần ghé.

blank
Đường dẫn vào trại tị nạn xưa, nay bên cạnh còn tượng đài Hand of Hope, Bàn tay Hy vọng, tác phẩm của nhà điêu khắc Nguyễn Lưu Đạt. (ảnh Bùi Văn Phú)

Theo lời chỉ dẫn, chạy về hướng Lake ONeil thì thấy bệnh viện. Nay bỏ hoang. Đúng là nơi tôi đã có dịp ghé qua cách đây 40 năm.


Nhớ mãi nơi này vì từ khi rời Việt Nam tôi chỉ ở lều trại, ngủ trên ghế bố mà chung quanh toàn cây xanh như ở Subic Bay, đồng cỏ khô như ở Camp Pendleton hay trơ trọi giữa nắng gió biển như ở Guam, vì thế được vào một nhà kiếng cao tầng như bệnh viện này là một sự kiện không phai mờ trong kí ức.

Thời gian sống trong Camp Pendleton tôi chỉ có hai dịp ra khỏi khu lều trại bằng xe buýt nhà binh. Một lần đi PX với ông anh họ. Đến đó, anh mua cho các em những cuốn sổ tay để đi học Anh văn ghi chép và một ra-đi-ô cát-sét bốn băng để sáng nghe đài BBC, VOA và để sang lại những băng nhạc Việt đang được chuyền tay nhau vì sợ khi rời trại sẽ không còn tìm thấy.

Một lần đi xa khác là đến bệnh viện này. Tôi mừng khi nhận ra nơi mình đã từng ghé qua. Ngày đó, vừa bước vào cửa bệnh viện là cảm nhận ngay được một mùi thơm đặc biệt.

blank
Bàn tay Hy vọng: Tượng đài này ghi dấu sự đón tiếp nồng ấm của nhân dân Hoa Kỳ dành cho hàng nghìn người tị nạn Việt và Cam Bốt trong “Chiến dịch Mới Đến” vào năm 1975. Gần 50,000 người tị nạn đã được lưu trú tại các trại Talega, Cristianitos và San Onofre trong khi chờ đợi làm thủ tục và tìm người Mỹ bảo trợ. Tượng trưng cho những triển vọng của cuộc đời mới và hy vọng vào tương lai, tượng đài là tác phẩm của nghệ sĩ người Việt Nguyễn Lưu Đạt, được hai người lính thủy quân lục chiến Mỹ dựng lên dưới sự giám sát của tác giả. (ảnh Bùi Văn Phú)

Sau khi chụp ảnh kỉ niệm, tôi lái xe vòng quanh khu vực nhưng không tìm ra tượng đài hay dấu tích trại tị nạn cũ.

Trở ra cổng chính, vào một cửa hàng MCX lớn như Costco tìm mua bản đồ. Cô bán hàng nói không có bản đồ in rồi dẫn tôi đến quầy dịch vụ khách hàng. Ở đó tôi nhận được bản copi vẽ sơ đồ trại. Hỏi về tượng đài, lấy bàn tay để diễn tả, cô tiếp viên nói nếu không biết ở khu vực số mấy sẽ khó tìm ra vì căn cứ rất rộng. Cô cho một số điện thoại, đề nghị tôi gọi đến đó sẽ có câu trả lời. Tôi gọi, nhưng không ai nhắc máy.

Sau hai giờ loanh quanh trong trại mà không có hy vọng, nhà tôi đã muốn bỏ cuộc. Tôi vận động tinh thần, kể rằng khi tôi đi Cuba, tiếng Tây Ban Nha không rành thế mà còn tìm ra được quán ăn Việt duy nhất ở Thủ đô Havana và nơi đặt tượng đài Hồ Chí Minh, trong khi ở đây là đất nước mình, ngôn ngữ sành sõi mà lại không tìm ra nơi muốn đến thì thật vô lý.

Dùng iPhone tìm cụm từ “Camp Pendleton and Vietnamese refugees 1975” thì ra hình tượng đài trong một bài báo tiếng Anh. Lần mò rồi tìm ra tên trại Talega trong Area 64. Xem sơ đồ có ghi khu vực này.

blank
Nơi đây 40 năm trước là những lều trại đón người tị nạn. (ảnh Bùi Văn Phú)

Ra khỏi cổng chính Camp Pendleton, chúng tôi đi ngược Xa lộ 5 về hướng bắc. Nửa giờ sau vào đến cổng San Onofre. Sau khi trình bằng lái xe, hỏi đường lên khu Talega, anh lính nói cứ chạy về phía phải sẽ thấy.

Trời trở nên âm u và bắt đầu mưa. Sau đoạn đường ngắn có nhà thì toàn đồi cỏ khô. Coi sơ đồ thấy vài con đường nhưng phải chạy khá xa mới có một ngã rẽ trái lên núi. Tôi quay ngược lại nơi gần cổng vào để dò hỏi rõ trước khi tiếp tục leo núi.

Đến khu có cửa hàng, hỏi mấy bạn trẻ nhưng cũng không ai biết. May thấy hai anh lính MP, tôi hỏi về lều trại và lại đưa bàn tay ra làm dấu tượng đài. Một anh biết rõ nơi tôi đang muốn đến, chấm lên sơ đồ và chỉ đường rành rẽ.

Đường leo núi không một bóng xe. Hai mươi phút sau tượng đài mầu trắng hiện ra trước mắt. Lúc đó gần 3 giờ chiều.

Trời mưa to, âm u nhưng lòng tôi vui vì đã về lại được nơi mình đã từng sống tạm 40 năm trước. Chỗ này là nơi bắt đầu con đường dẫn vào lều trại, giờ hai bên chỉ cỏ khô. Ngày trước quanh đây có đặt vài văn phòng tiền chế là nơi người tị nạn mới đến khai hồ sơ, làm thủ tục nhập trại. Bây giờ có một căn nhà kiểu trại lính ở bên phải.

blank
Bệnh viện hải quân cũ, nơi chữa trị người tị nạn đau ốm khi ở trong trại. (ảnh Bùi Văn Phú)

Từ ngoài là trại 8. Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã sống trong trại này. Vào trong là lều ăn, lều tắm. Trại 5, nơi tôi ở nằm bên trái. Bên phải là trại 4, 6. Sâu hơn là khu ba-rắc trại 1, 2 và 3.

Những ba-rắc còn đó. Vẫn những con số của từng căn như cách đây 40 năm đã là địa chỉ của người tị nạn. Gần đó là mảnh đất sinh hoạt cho trẻ em vào ban ngày, tối là nơi chiếu phim. Hàng ghế gỗ vẫn còn nhưng đã mục nát nhiều. Sân đá bóng gần đó tôi không nhận ra vì đã phủ cỏ khô.

Tôi ở Trại 5, Khu 9, Lều 12. Nằm chỗ nào trên đoạn đường này tôi không thể định vị trí chính xác được vì giờ toàn cỏ khô. Chỉ phỏng đoán rồi dừng xe chụp hình.

blank
Thẻ ăn của người tị nạn. (ảnh Bùi Văn Phú)

Kí ức 40 năm trước hiện về rõ như một khúc phim. Tôi nhớ những buổi học tiếng Anh trong lều với các thày Đỗ Đình Tuân, Tạ Quang Khanh, Trần Văn Chương, với cô Kelly. Nhớ buổi họp mặt sinh viên luật với giáo sư Nguyễn Văn Canh. Nhớ lễ Chúa Nhật với cha Nguyễn An Ninh.

Nhớ căn lều ở chung với các anh chị thỉnh thoảng buổi chiều yên tĩnh nghe có tiếng rắn rung chuông mà sợ. Nhớ các bạn mới quen trong trại: Nguyễn Thị Thủy, Trần Năm Châu, Nguyễn Huy Dư là sinh viên Đại học Sài Gòn. Nhớ các anh Nguyễn Văn Bút, Nguyễn Văn Chinh là lính hải quân. Nhớ cô gái tên Lê Thị Phương Trang dễ thương ở gần lều.

Nhớ những bài ca quen thuộc của Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Lê Uyên Phương vang vang trong lều mà những khi nhớ nhà tôi đã ngồi nghe và ghi lại. Nhớ những buổi tối ra bãi cỏ xem phim hoạt hình “Popeye The Sailor”. Nhớ những chiếc áo rộng thùng thình nhận từ hội từ thiện.

blank
Phố Bolsa của Little Saigon tưởng niệm 40 năm ngày 30/4. (ảnh Bùi Văn Phú)

Nhớ những bữa cơm chiều có thịt gà với hàng người dài như rồng rắn. Nhớ cảnh nhà ăn vắng hoe vì món cá không hợp khẩu vị. Nhớ món chopsuey bữa trưa, cháo thịt bữa sáng. Nhớ táo, cam thơm ngon.

Con đường từ tượng đài vào đến khu ba-rắc tôi cảm thấy ngắn hơn nhiều so với 40 năm trước. Có lẽ giờ tôi lái xe, ngày xưa đi bộ.

Nếu chương trình tưởng niệm không bị hủy bỏ, lúc này đã có hàng nghìn người Việt ở đây.

Hy vọng 5 hay 10 năm tới người Việt sẽ có cơ hội cùng nhau về đây để nhớ lại những ngày buồn đau khi nghĩ về quê hương cũ và những ngày đầy lo lắng nghĩ đến tương lai nơi đất mới. Về đây để cùng nhau nhắc nhở cho thế hệ mai sau biết là từ vùng đồi cỏ khô này cộng đồng người Mỹ gốc Việt đã được thành hình. Rồi phát triển và vươn lên.

© 2015 Buivanphu.wordpress.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong Lực lượng vũ trang nhân dân là mối lo hàng đầu của đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Bằng chứng này đã được Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đưa ra tại Hội nghị Đảng ủy Công an ngày 20/12/2023 tại Hà Nội, và trong nội dung các bài viết trên báo chí chính thống của nhà nước liên quan đến Quân đội...
Người ta nên áp dụng đạo đức vào tài chính trị của Henry Kissinger như thế nào? Làm thế nào để người ta quân bình những thành tựu với những hành vi sai trái của Kissinger? Tôi đã vật lộn với những vấn đề đó từ khi Kissinger là giáo sư của tôi, và sau này là đồng nghiệp tại Đại học Harvard. Vào tháng Tư năm 2012, tôi đã giúp phỏng vấn ông trước một số lượng lớn cử toạ tại Harvard và hỏi liệu ông có làm điều gì khác đi trong thời gian làm ngoại trưởng cho các Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon và Gerald Ford không. Lúc đầu, ông nói không. Suy nghĩ lại, ông nói rằng ước mình là đã hoạt động tích cực hơn ở Trung Đông. Nhưng ông không đề cập đến Campuchia, Chile, Pakistan hay Việt Nam. Một người phản đối ở phía sau hội trường hét lên: "Tội phạm chiến tranh!"
Việt Nam có còn “độc lập” với Trung Quốc hay không sau chuyến thăm Hà Nội của Tổng Bí thư, Chủ tịch nhà nước Tập Cận Bình là thắc mắc của người dân Việt Nam. Ông Tập có mặt ở Việt Nam từ 12 đến 13 tháng 12 năm 2023 và đạt được cam kết của Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng về “xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam-Trung Quốc”.
Ngày nay, Chiến lược Phòng thủ Quốc gia của Hoa Kỳ – giống như chiến lược Chiến tranh Lạnh tạo chuẩn mực cho tư duy chiến lược trong những năm từ thập kỷ ‘50 đến ’80 – bị chi phối bởi một tác nhân đe dọa chính, đó là Trung Quốc. Điều này vừa cung cấp thông tin vừa tạo điều kiện cho tất cả các mối đe dọa lớn khác có thể xảy ra: Nga, Iran và Bắc Triều Tiên. Giống như thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ hiện đang lâm vào một cuộc cạnh tranh với đối thủ duy nhất của mình, một cuộc cạnh tranh có khả năng bỏ rơi các thành tựu chính trị, kinh tế và công nghệ. Hoa Kỳ cũng đang ở trong một cuộc chạy đua vũ trang hiện đại, và trong một số trường hợp, chơi trò đuổi bắt và tranh đua để giành tình hữu nghị, gây ảnh hưởng lên các quốc gia khác trên thế giới.
Rồi vào ngày 12/12/2023, tức chỉ sau ba tháng, Việt Nam lại long trọng tiếp đón Chủ Tịch Tập Cận Bình và nói rằng hợp tác và hữu nghị với Trung Quốc là lựa chọn chiến lược của Việt Nam...
Chỉ ba tháng sau khi Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ lên cấp cao nhất trong hệ thống phân cấp ngoại giao trong chuyến thăm của Tổng thống Biden, người ta thấy Chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc đã trở thành nhà lãnh đạo thế giới mới nhất tăng cường quan hệ với Việt Nam với chuyến thăm Hà Nội trong tuần này...
Chuyến thăm Việt Nam hai ngày của Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước Cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình đã để lại nhiều hệ lụy cho nhân dân Việt Nam hơn bao giờ hết. Bằng chứng này được thể hiện trong Tuyên bố chung ngày 13/12/2023 theo đó họ Tập thay quan điểm “cộng đồng chung vận mệnh” bằng “xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai” cho hai nước...
Sự ra đi của nhà tư tưởng và thực hành xuất sắc về chính sách đối ngoại của Mỹ đánh dấu một kỷ nguyên kết thúc. Trong suốt sự nghiệp lâu dài và có ảnh hưởng phi thường của mình, Henry Kissinger đã xây dựng một di sản mà người Mỹ sẽ khôn ngoan chú ý trong kỷ nguyên mới của nền chính trị cường quốc và sự xáo trộn trong toàn cầu. Thật khó để tưởng tượng rằng thế giới mà không có Henry Kissinger, không chỉ đơn giản vì ông sống đến 100 tuổi, mà vì ông chiếm một vị trí có ảnh hưởng và đôi khi chế ngự trong chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của Mỹ trong hơn nửa thế kỷ.
“Tham nhũng kinh tế” ở Việt Nam đã trở thành “quốc nạn”, nhưng “tham nhũng quyền lực” do chính đảng viên gây ra để thu tóm quyền cai trị mới khiến Đảng lo sợ. Đó là nội dung đang được phổ biến học tập để đề phòng và bảo vệ chế độ do Ban Nội chính Trung ương công bố...
“Trong năm 2023 còn nhiều vấn đề đáng lo ngại, gây bất an cho xã hội. Các tội phạm trên các lĩnh vực tiếp tục gia tăng toàn quốc xảy ra 48.100 vụ phạm tội và trật tự xã hội tăng 18%.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.