Hôm nay,  

Trang Sử Việt: Lê Thái Tông: Lê Nguyên Long

27/02/201500:00:00(Xem: 4677)

LÊ THÁI TÔNG: LÊ NGUYÊN LONG (1423-1442)

Lê Nguyên Long là con thứ hai của Lê Thái Tổ và bà Cung Từ Hoàng thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần, chào đời trong thời kháng chiến Lam Sơn. Mẹ mất năm 1425, khi ông mới 3 tuổi. Lúc đó anh cả của Nguyên Long là Lê Tư Tề đã trưởng thành và tham gia vào việc quân với cha là Lê Lợi.

Trong triều xảy ra mâu thuẫn giữa hai phe đại thần ủng hộ Lê Tư Tề và Lê Nguyên Long. Phe Lê Sát ủng hộ Lê Nguyên Long thắng thế, Lê Tư Tề bị kết tội là “mắc chứng điên cuồng” và bị hạ chức từ Quốc vương xuống Quận Ai vương, Lê Nguyên Long được lập làm Thái tử.

Năm 1433, Lê Thái Tổ qua đời, Lê Nguyên Long mới 11 tuổi lên nối ngôi, đế hiệu Lê Thái Tông, Lê Sát làm phụ chính. Trong triều lại xung đột giữa những người khai quốc công thần, đứng đầu là Tư đồ Lê Sát và Lê Ngân, còn bên kia là các quan xuất thân từ khoa bảng. Dù còn ít tuổi nhưng nhà vua tỏ ra là người thông minh, quyết đoán, đủ bản lĩnh đối phó với những vấn đề phức tạp của triều đình.

Lê Sát ít học nhưng là công thần nên được Lê Thái Tông thăng làm Tư đồ, từ đấy Lê Sát cậy quyền làm nhiều điều trái phép, ai không hợp ý đều bị Lê Sát tìm cách hãm hại. Các quan lại: Trình Hoàng Bá, Lê Quốc Khí, Đinh Bang Bản, Nguyễn Tông Chí, Lê Đức Dư, đều về phe với Lê Sát đã vu khống Phạm Văn Xảo và Trần Nguyên Hãn. Khi Lê Thái Tông được 15 tuổi, lẽ ra Lê Sát phải rút lui nhưng vẫn tham quyền và chuyên quyền, Lê Thái Tông bất bình bèn bãi chức Lê Sát và Lê Ngân, rồi hạ lệnh tự sát hoặc giết chết.

Năm 1438, Lê Thái Tông chỉnh đốn việc thi cử, lệ cứ 5 năm một lần thi hương, 6 năm một lần thi hội. Thời Lê Thái Tông trong nước bị mấy năm đại hạn, rồi nước lụt và hoàng trùng làm hại mùa màng, dân chúng đói khổ. Ngoài ra, loạn Mường, Mán ở các vùng xa, vua thân chinh hoặc cử các tướng đi đánh dẹp, nước nhà được yên ổn trở lại. Những nước lân bang: Xiêm La (Thái Lan), Ai Lao (Lào) và Chiêm Thành đều có sứ thần đi lại và thường có tiến cống.


Năm 1442, vua cho mở khoa thi Tiến sĩ, những người đỗ đều được khắc tên vào bia đá và văn miếu (miếu Khổng Tử).

Lê Thái Tông lên ngôi nhưng vẫn lo ngại anh cả Lê Tư Tề giành lại ngôi vị. Vua ra lệnh giam lỏng Lê Tư Tề, cấm vào triều, cấm các quan không được lại gần Lê Tư Tề. Không lâu sau đó, Tư Tề qua đời. Bà Phạm Huệ Phi mưu phế bỏ Thái Tông, Thái Tông đày bà Huệ Phi về Lam Kinh để coi Vĩnh Lăng (lăng Lê Lợi), sau đấy hạ lệnh ép bà tự sát.

Lê Thái Tông có nhiều vợ và 4 người con trai, Thái Tông đã có 2 bà phi là Lê Ngọc Dao (con Lê Sát) và Lê Thị Lệ (con Lê Ngân). Năm 1438, ra lệnh giết Lê Sát, Lê Ngân, 2 bà phi đều bị phế truất, Lê Ngọc Dao xuống làm dân thường còn Lê Thị Lệ xuống làm Tu dung. Sau đó Lê Thái Tông sủng ái bà phi Dương Thị Bí và sinh ra Lê Nghi Dân vào năm 1439. Năm 1440, Thái Tông lại sủng ái Nguyễn Thị Anh, nói bà Dương Thị Bí kiêu ngạo nên truất làm Minh nghi. Cùng năm đó, Nguyễn Thị Anh sinh ra Lê Bang Cơ. Thái Tông liền truất Nghi Dân làm Lạng Sơn Vương và lập Bang Cơ làm Thái tử. Tháng 7 năm 1442, một bà vợ khác là Ngô Thị Ngọc Dao sinh ra hoàng tử Lê Tư Thành. Ngoài ra, Nguyễn Thị Lộ (vợ Nguyễn Trãi) đã 40 tuổi, có sắc đẹp, giỏi văn thơ, vua (20 tuổi) cho ra vào cung cấm và kề cận.

Năm 1442, vua Thái Tông đi tuần, đến Côn Sơn, nơi ở của Nguyễn Trãi. Ngày 4 tháng 8 vua về đến vườn Vải (Lệ Chi Viên) được Nguyễn Thị Lộ theo hầu. Vua thức suốt đêm hôm đó với Nguyễn Thị Lộ rồi qua đời tại nơi này. Đây chính là “Vụ án Lệ chi viên”, nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Nguyên nhân cái chết của Lê Thái Tông, ngày nay một số nhà nghiên cứu đã nêu ra giả thiết chính bà phi Nguyễn Thị Anh là thủ phạm. Ông ở ngôi được 9 năm, hưởng dương 20 tuổi.

Cảm niệm: Lê Thái Tông

Lên ngôi sang sửa chốn triều đình
Lê Thái Tông, lo lắng chiến chinh
Vườn vải một đêm, gây thảm thiết!
Đất trời chua chát, đảo điên tình?!

Nguyễn Lộc Yên

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thời gian còn làm Trung Sĩ Thông Dịch Viên trong Bộ Tư Lệnh Lục Quân Hoa Kỳ ở căn cứ Long Bình, Việt Nam vào năm 1969, trước khi tôi được chuyển sang phục vụ trong ngành phi hành của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, thì tôi có dịp tháp tùng phái đoàn Dân Sự Vụ (Civic Action) Lữ Đoàn 18 Quân Cảnh Hoa Kỳ (U.S. 18th Military Police Brigade) đi công tác ở Nhật Bản. Cũng trong chuyến công du này tôi đã phát hiện ra rằng, Nhật Bản là một quốc gia thực thi được chính sách phát triển kinh tế làm thịnh vượng cho toàn thể xã hội, và xóa bỏ được nhiều điều bất công...
Trong bất kỳ cuộc đấu tranh nào, cần phải phân loại, xác định rõ ràng các loại “địch” để tìm cách đối phó hoặc vận động gây cảm tình làm đồng minh, tùy loại địch. Mọi người thường nói, “biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng” là vậy.
Chỉ trong vòng 465 ngày (26/04/2024-17/01/2023) đảng CSVN đã trải qua 3 cuộc khủng hoảng lãnh đạo thượng tầng chưa từng có trong lịch sử. Người duy nhất vẫn “vững như bàn thạch” là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, 80 tuổi, nhưng ai sẽ thay ông Trọng để lãnh đạo đảng, sau Đại hội toàn quốc tháng 01 năm 2026 là câu hỏi chưa có câu trả lời...
Mới đây ở Việt Nam lại bùng nổ ra một vài vụ tham nhũng khá nghiêm trọng như vụ Vạn Thịnh Phát và Việt Á. Vào đầu năm nay, Transparency International báo cáo kết quả nghiên cứu tình trạng tham nhũng tại 180 nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Nhân dịp này chúng ta duyệt lại tình trạng tham nhũng ở Việt Nam.
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.