Hôm nay,  

Xuân và Tết Trong Nhạc Việt Nam

2/14/201500:00:00(View: 4211)
Chơi Xuân kẻo hết Xuân đi,
Xuân tàn hoa rụng còn gì vui Xuân
(Nguyễn công Trứ)

Thời gian cứ thế mà trôi. Mười hai con giáp thay nhau chạy. Hết con này đi, con kia lại tới, đúng như tục ngữ ta vẫn thường nói: „Năm hết, Tết đến!“.

Thắm thoát Đông qua và Xuân lại về. Khắp nơi, tất cả mọi người, già trẻ lớn bé hớn hở vui mừng, yêu đời ca hát chờ đón nàng Xuân.

Nhạc sĩ Minh Kỳ đã chào đón nàng Xuân:

Một bài ca đón chào mừng, hoà theo tiếng pháo đì đùng,
Mừng Xuân nay đã về rồi và Đông đã tàn qua
Về gieo bao thắm tươi, lòng ta thấy yêu đời
(Xuân Đã Về của NS Minh Kỳ)

Xuân đã về, vạn vật đổi thay. Người nhạc sĩ mượn lời nhạc để diễn tả cảnh Xuân:
Xuân đã về, Xuân đã về,
Kià bao ánh Xuân về tràn lan mênh mông.
Trên cánh đồng,
chim hót mừng đang thướt tha từng đàn tung bay vui say
Xuân đã về, Xuân đã về,
Ngàn hoa hé môi cười tươi đón gió mới
Xuân đã về, Xuân đã về,
Ta hát vang lên câu ca mừng chào Xuân
Ngoài trời bao la, xinh tươi,
Bao cô gái đẹp cười trong xinh như hoa, lập loè bao aó xanh xanh,
chen bông tím vàng, đẹp hơn Tiên Nga.
Ngoài bầy em bé ríu rít, khúc khích tiếng cuời rủ nhau vui ca.
Xuân đã về, trên cánh đồng
Bao bác nông ngừng cày ruộng vui say xuân
Xuân đã về, Xuân đã về,
Ngàn cô gái quê cười tươi đón gió mới,
Xuân đã về, Xuân đã về,
Ta hát vang chào mừng Xuân sang, Xuân sang
(Xuân Đã Về của Minh Kỳ)

Nhớ khi xưa lúc còn ở quê nhà (Việt Nam), một hai tháng trước khi Xuân về thì phố xá, chợ búa trở nên tấp nập. Thiên hạ rủ nhau đi mua đồ chuẩn bị đón Tết. Các cô cậu thanh niên, thiếu nữ choi choi cũng xí xọn đi chọn đồ đẹp để chưng diện trong những ngày Tết. Phải nói, người Việt chuẩn bị đón Tết rất trân trọng và vui chơi đôi khi kéo dài cả tháng. Bà con thân thuộc thăm viếng chúc tụng liên miên....Và cũng có những đêm văn nghệ mừng Xuân, cũng có chương trình ca nhạc trên Ti-Vi với những bài hát ca tụng Xuân, vui có, buồn có... Không khí Tết sao mà tưng bừng khó quên và rất khó diễn tả cho đúng.

Và cứ mỗi lần Tết về là trên Ti-Vi không bao giờ thiếu bản nhạc bất hủ của nhạc sĩ Phạm đình Chương với tựa đề „Ly Rượu Mừng“. Chỉ thoáng nghe qua tựa đề thôi chúng ta cũng có thể đoán được nội dung bản nhạc hàm chứa những gì. Bài hát thâm thúy quá, chúc Tết mọi người ở khắp nơi, chúc Tết mọi giới, từ anh nông phu đến người thương gia:

Ngày Xuân nâng chén ta chúc nơi nơi,
Mừng anh nông phu vui luá thơm hơi,
Người thương gia lợi tức, người công nhân ấm no,
thoát ly đời cam go nghèo khổ!
A, á, a, à. Nhắp chén đầy vơi chúc người người vui....

Để tiễn đưa, để bộc lộ tâm tình của người hậu phương được gắn bó với với sự hy sinh cao cả của người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà đang lên đường ra tiền tuyến, tác giả đã khéo léo:

Rót thêm tràn đây chén quan san
Chúc người chiến sĩ lên đàng, chiến đấu công thành...

Và người nhạc sĩ cũng đã tìm thấy ý Xuân trong tình yêu, cầu mong cho những đôi tình nhân:

Rượu hân hoan mừng đôi uyên ương,
Xây tổ ấm trên cành yêu đương.

Vẫn biết, nếu không có những người nhạc sĩ thì lấy ai mà diễn tả nguồn rung cảm thay mình nên:

Nào cạn ly mừng, mừng người nghệ sĩ
Tiếng thi ca nét chấm phá tô thêm đời mới.

NS Phạm đình Chương cũng không quên chúc lành quê hương Việt Nam mến yêu.

Mời quí vị hãy nghe:

Bạn hỡi vang lên lời ước thiêng liêng,
chúc non sông hoà bình, hoà bình
Ngày máu xương thôi tuôn rơi, ngày ấy quê hương yên vui
Đợi anh về trong chén tình đầy vơi.
Nhấc cao ly này. Hãy chúc ngày mai sáng trời tự do.
Nước non thanh bình.
Muôn người hạnh phúc chan hòa.
(Ly Rượu Mừng của NS Phạm đình Chương)

Bài hát hay, nội dung phong phú quá phải không quí vị?. Còn nhiều bài hát Xuân nữa, lát đây tôi sẽ ghi lại vài bản nhạc để chúng ta cùng thưởng lãm. Bài „Ly Rượu Mừng“ nói trên theo những người Việt tị nạn cộng sản ra tới hải ngoại sau biến cố 30.4.1975! Và cứ mỗi lần Xuân về, hầu như nơi nào có tổ chức Tết, dù nhỏ hay lớn, nơi đó người Việt tha hương chúng ta lại hát, lại có dịp được nghe hợp ca bài này. Và „Ly Rượu Mừng“ lại được hát vang lên trong cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại, trên khắp năm châu.

Chúng ta, người Việt tỵ nạn cộng sản sau hơn ba mươi tám năm xa xứ, dù sống ở Mỹ, Úc, Nhật, Gia Nã Đại, Anh, Pháp, Bỉ, Thụy Sĩ hay Đức....có lẽ bạn cũng như tôi nhận thấy rằng người bản xứ vui Tết không giống như người Việt mình. Trên phương diện văn nghệ, theo thiển ý của tôi thì họ chơi đủ loại nhạc, miễn sao ồn ào để vui, nhảy loạn lên là được rồi. Mang âm hưởng Tết hầu như thiếu hẳn. Trừ những quốc gia có nhiều người Việt tị nạn cs sinh sống như Mỹ, Úc, Pháp hay Gia Nã Đại, những nơi có thể nói là hưởng được một cái Tết tha hương không khác lắm so với quê nhà chứ ở nơi tôi đang định cư, lạnh lẽo mà đồng hương lại sống rải rác nên Tết xứ người... dù hai lần, Tết Dương Lịch theo Tây Phương và Tết ta theo người Việt mình, tôi nói riêng cảm thấy sao mà buồn chi lạ. Bởi vậy xin mạo muội ghi ra đây vài bài hát Xuân tôi biết, đã nghe qua để quí vị cùng nghe với tôi, để thấy rằng không những Tết Việt Nam hình thức đã dị biệt mà ngay cả nhạc Tết của mình cũng khác, thâm thúy, ướt át hơn nhiều.


Tết còn là dịp để gặp gỡ hàn huyên, thăm hỏi chúc tụng nhau. Bản tính người Á Đông thân thiện và muốn mọi người cùng chia vui với mình. Mời quí vị lắng nghe những lời ca sau đây:

Xuân đã đến rồi gieo rắc ngàn hồn hoa xuống đời
Vui trong bình minh muôn loài chim hót vang mọi nơi
Đem trong tiếng cười cho kiếp người tình thương đắm đuối,
Ánh Xuân đêm vui với đời
.
.... Cùng đón Chúa Xuân, đang giáng xuống trần.
Thế gian lắng nghe tình Xuân nồng,
Kiếp hoa hết phai đời hương phấn.
Nào ai hững hờ. Xuân vẫn ngóng chờ,
Tới đây nắm tay cùng ca múa.
Hát lên đón Xuân của tuổi thơ.
(Đón Xuân của NS Phạm Đình Chương)

Xuân về, già trẻ lớn bé ai cũng vui mừng chào đón. Nhất là giới thanh niên, thiếu nữ và trẻ con, vui đùa hớn hở. Mà không vui sao được khi:

Ngày thắm tươi bên đời Xuân mới.
Lòng đắm say bao nguồn vui sống.
Xuân về với ngàn hoa tươi sáng.
Ta muốn hái muôn ngàn đóa hồng.
(Xuân và Tuổi Trẻ của NS La Hối)

Mừng Xuân mới, người ta cảm thấy yêu đời hơn, trẻ trung hơn và hy vọng nhiều cho ngày mai:

Ta trẻ vui, ta trẻ vui đời Xuân thắm tươi.
Vui sướng đi cho đời tươi sáng.
Vui sướng đi cho lòng thêm tươi.
Ta hát ca đón mừng Xuân mới.
Ta hát ca cho lòng thêm hăng hái.
(Xuân và Tuổi Trẻ của NS La Hối)

Thời gian qua nhanh như thoi đưa, hết một năm tảo tần vì sinh kế. Tết lại đến, người người hân hoan vì Xuân:

Thấm thoát là đây,
một mùa Xuân mới muôn ngàn cánh hoa vàng
Nụ cười trên môi, trên làn má ai.
Đón Xuân tươi vừa sang...
(Hạnh Phúc Đầu Xuân của Minh Kỳ và Lê Dinh)

Người Việt dù xa quê hương nhưng không quên bà con, bạn bè của mình ở bên kia bờ đại dương. Hãy nghe người ta mừng tuổi, chúc lành nhau nhân dịp đầu Xuân:

Xuân nay tôi chúc,
người miền quê hương, muôn ngàn câu mến thương.
Mong Xuân yên lành, trong bao gia đình,
để đời người yên vui, cuộc sống thanh bình.
Xuân nay tôi chúc, người người nơi nơi...
Cho bền duyên lứa đôi, như hoa Xuân đời
Tay trong tay cười, dựng xây ngày hôm nay.
Cho ngày mai sáng tươi.
(Hạnh Phúc Đầu Xuân của Minh Kỳ và Lê Dinh)

Tết là dịp để thân nhân, họ hàng, những cặp tình nhân gặp gỡ, đoàn tụ nhưng đôi khi vì hoàn cảnh chiến tranh, trước 30.4.1975 đã có biết bao nhiêu người lính không có diễm phúc này. Họ đã thi hành bổn phận người trai thời chiến để trấn giữ biên thùy, bảo vệ an ninh cho đồng bào ở hậu phương an lòng hưởng Tết.

Dầu vậy vẫn có nhiều người lính Việt Nam Cộng Hoà chẳng buồn lòng, dù cho tâm trạng của họ lúc nào cũng nhớ nàng Xuân:

Ôi nhớ Xuân nào thưở trời yên vui.
Nghe pháo giao thừa rộn ràng nơi nơi.
Bên mái tranh nghèo ngồi quên bếp hồng.
Trông bánh chưng chờ trời sáng...
(Xuân Này Con Không Về của NS Trịnh Lâm Ngân)

Và họ vẫn hy sinh, kiên trì nhất định:
Con biết không về mẹ chờ em trông.
Nhưng nếu con về bạn bè thương mong.
Bao lứa trai cùng chào Xuân chiến trường.
Không lẽ riêng mình êm ấm.
Mẹ ơi, con Xuân này vắng nhà.
Mẹ thương con, xin đợi ngày mai!
(Xuân Này Con Không Về của NS Trịnh Lâm Ngân)

Ý Xuân trong tình yêu đã làm nên những bản nhạc tình thật dễ thương. Đôi lứa yêu nhau, lắm khi vụng dại từ lúc còn trẻ, đi chung đường, học chung lớp. Anh chàng ôn lại kỷ niệm xưa, tỏ tình:

Chuyện xửa chuyện xưa. Chuyện từ Xuân trước,
Xuân nay chưa nhòa.
Anh nói em nghe, thương em từ lúc hoa chưa mặn mà.
Cầu cho mùa Xuân, nồng nàn lên má em tôi đợi chờ.
(Đám Cưới Đầu Xuân của NS Trần Thiện Thanh)

Xuân về rồi Xuân đi nhưng kỷ niệm lúc nào cũng còn đó, nhất là đối với những đôi uyên ương:

Đón Xuân này tôi nhớ Xuân kia,
Hẹn gặp nhau khi pháo giao thừa,
Em đứng chờ tôi trước song thưa,
Tôi đi qua đầu ngõ. Hỏi nhau thầm, Xuân đã về chưa.
(Đón Xuân Này Nhớ Xuân Kia của NS Châu Kỳ)

Riêng đối với người Việt tỵ nạn cộng sản vì hoàn cảnh phải xa lìa quê hương, dù không có được cái may mắn hưởng cái Tết đúng ý Xuân toàn vẹn theo truyền thống Việt Nam nhưng trong lòng lúc nào cũng ước mơ có một mùa Xuân Quang Phục trên đất Mẹ.

Tâm cảm đó được thể hiện qua lời nhạc và niềm hy vọng:

Người về đây giữa non sông này.
Hội trùng dương hát câu sum vầy.
Về cho thấy con thuyền nước Nam.
Đi vào mùa Xuân mới sang. Xa vời ngày ấy ly tan...
(Hải Ngoại Thương Ca của NS Nguyễn văn Đông)

Lúc ấy người Việt tỵ nạn lưu vong chúng ta sẽ cùng nhau ca vang khúc Xuân Ca, sẽ nâng cao „Ly Rượu Mừng“, quên đi những ưu phiền, tị hiềm trong quá khứ, để nhấp cạn ly rượu, trên đất Mẹ Việt Nam dấu yêu và cùng nhau:

Nhấc cao ly này, hãy chúc ngày mai sáng trời tự do.

Nước non thanh bình.
Muôn người hạnh phúc chan hoà.
Ước mơ hạnh phúc nơi nơi.
Hương thanh bình đang phơi phới.

Trên đây chỉ là một vài bản nhạc Xuân tiêu biểu, rất tiếc bài viết có giới hạn nên tôi không thể trích dẫn hết để trình bày cùng quí vị, xin thông cảm. Nhưng qua đó cũng đủ gói ghém ý Xuân của dân tộc Việt Nam....

* © Lê Hoàng Thanh

(Vào Xuân.... )

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
Biển Đông hiện như một thùng thuốc súng và, liệu nếu xung đột bùng ra, chúng ta có phải đối phó với một quân đội Trung Quốc man rợ mà, so với quân đội Thiên hoàng Nhật trong Thế chiến thứ hai, chỉ có thể hơn chứ khó mà bằng, đừng nói chuyện thua? Như có thể thấy từ tin tức thời sự, cảnh lính Trung Quốc vác mã tấu xông lên tàu tiếp tế của Philippines chém phá trông man rợ có khác nào quân cướp biển từ tận hai, ba thế kỷ trước? [1] Rồi cảnh chúng – từ chính quy đến dân quân biển, thậm chí cả ngư dân – trấn lột, cướp phá, hành hung và bắt cóc các ngư phủ Việt Nam từ hơn ba thập niên qua cũng thế, cũng chính hiệu là nòi cướp biển.
Hội nghị Trung ương 10/khóa đảng XIII kết thúc sau 3 ngày họp (18-20/09/2024) tại Hà Nội nhưng không có đột phá nào, mọi chuyện vẫn “tròn như hòn bi” dù đây là hành động đầu tiên của tân Tổng Bí thư Tô Lâm...
Việc nhà hoạt động dân chủ Trần Huỳnh Duy Thức được nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do trước thời hạn có lẽ là một trong những vấn đề đã được nội các chính quyền Biden-Harris quan tâm và vận động từ năm 2021.
Đối với triết gia Immanuel Kant, lời nói dối là “cái ác bẩm sinh sâu xa trong bản chất con người” và cần phải tránh xa ngay cả khi đó là vấn đề sống còn1. Trong tác phẩm “Deciphering Lies”, Bettina Stangneth, 2017, viết rằng: “Trong số những lý do khiến người ta nói dối vì điều đó có thể giúp họ che giấu bản thân, ẩn náu và tránh xa những người xâm phạm vùng an toàn của họ.” Stangneth cho biết thêm, “cũng không khôn ngoan khi thả trẻ em ra thế giới mà không biết rằng người khác có thể nói dối chúng.” The Wasghington Post, ban kiểm tra sự thật, cho biết: Trong bốn năm làm tổng thống thứ 45, từ 2017-2021, đến cuối nhiệm kỳ, Trump đã tích lũy 30.573 lời nói dối trong suốt nhiệm kỳ tổng thống - trung bình khoảng 21 lời tuyên bố sai lầm mỗi ngày. Từ khi thua cuộc tái ứng cử vào tay tổng thống Joe Biden cho đến giờ này, tranh cử với bà Harris, ông Trump càng gia tăng khẩu phần nói dối, phong phú đến mức độ không thể đếm cho chính xác.
Câu chuyện hoang tưởng “di dân ăn thịt chó, mèo” của Donald Trump và JD Vance gây ra nỗi sợ hãi, tạo ra nhiều kích động tiêu cực, vì nó được nói ra trước 81 triệu dân Mỹ, từ một cựu tổng thống. Những lời vô căn cứ tràn đầy định kiến và thù hận đó như một bệ phóng cho con tàu “Kỳ Thị” bay vút vào không gian của thế kỷ 21, thả ra những làn khói độc. Nó như một căn bệnh trầm kha tiềm ẩn lâu ngày, nay đúng thời đúng khắc nên phát tán và lan xa. Nói như thế có nghĩa, con tàu “Kỳ Thị” này, căn bệnh này, vốn đã có từ rất lâu đời. Nó âm ỉ, tích tụ, dồn nén theo thời gian, chực chờ đến ngày bùng nổ. Một tuần qua, người Haiti, là nạn nhân của cơn bùng phát này. Gần nửa thế kỷ trước, và cho đến tận nay, là cộng đồng người gốc Việt.
Sự trỗi dậy của những nhóm cực hữu đang làm sống lại làn sóng kỳ thị chủng tộc, một căn bệnh trầm kha chưa bao giờ thực sự chấm dứt ở Hoa Kỳ. Để thực hiện những chương trình nghị sự của mình, những người theo chủ nghĩa thượng tôn da trắng đã thực hiện nhiều chiến lược, chiến thuật khác nhau. Trong những năm gần đây, nhiều nhà hoạt động đã cảnh báo các nhóm cực hữu đang cố sử dụng nền tảng giáo dục làm công cụ để bảo vệ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Một bài viết trên trang mạng lithub.com của tác giả Jason Stanley đã phân tích sâu sắc về đề tài này.
Nhìn ở bề ngoài thì ông Benjamin Netanyahu, Thủ tướng Do Thái, đang làm cái việc của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) Nguyễn Văn Thiệu từng làm với cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ 1968. Năm đó ông Thiệu bị cáo buộc là hành động để đảng Dân Chủ thua đảng Cộng Hòa còn bây giờ thì, xem ra, ông Netanyahu lại đang tháu cáy với nước cờ tương tự tuy nhiên bản chất hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.