Hôm nay,  

“Nước Rút” Và, “Đường Trường” Trong Hành Trình Thơ Nguyễn Lương Vỵ

12/27/201400:00:00(View: 5559)
1. Cách đây gần hai chục năm, cố thi sĩ Nguyên Sa, trong một bài viết về thơ của một bằng hữu, ông nhấn mạnh tới hai ý niệm “nước rút” và, “đường trường”. Tuy nhiên, tác giả “Áo lụa Hà Đông” không khai triển hai ý niệm này đặc biệt này.

Theo tôi, ý niệm “nước rút” dành cho một người làm thơ, có thể hiểu:

- Ở giai đoạn khởi hành, chìm, lẫn giữa những người đồng thời, cùng có mặt trong một lên đường ồ ạt, đông đảo thì, bằng vào khả năng thiên phú, hắn đã bứt phá, tách thoát khỏi đám đông, để lao mình về phía trước, như một thành tựu lẻ, hiếm. Nhưng, với những ai có ít nhiều kinh nghiệm chữ, nghĩa, đều không ngạc nhiên, bất ngờ khi thấy nửa chừng, những tinh anh sớm phát tiết kia, đã không còn hiện diện ở tiền trường của quảng trường thi ca. Hắn chỉ còn được nhớ tới trong một thời vang bóng.

(Một bằng hữu của tôi, gọi những nhà thơ ở trường hợp này là “Thi sĩ của một thời”).

Còn ý niệm “đường trường”, vẫn theo tôi, dành cho một người làm thơ, có thể hiểu:

- Trong cuộc trường chinh chữ, nghĩa, nhà thơ chẳng những không cho thấy sự đuối sức hay, lập lại chính mình với chiều dài thời gian, tính bằng nhiều thập niên. Mà, mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, cõi giới thi ca của hắn lại rạng rỡ, ngời sáng hơn; tiếp tục cống hiến người đọc, những đường kiếm huê dạng, mới; mở được những cánh cửa hình ảnh và, ngôn ngữ khác.

Ở trường hợp này, tôi cho họ là những thi sĩ tự thân có được một nội lực thâm hậu, (bên cạnh kinh nghiệm sử dụng chữ và, nghĩa). Nó không còn mang tính thiên phú hoặc…“trời cho” nữa. Đó chính là kết quả của những tháng, năm lao tác, thử nghiệm liên lủy, không ngơi nghỉ.

Hôm nay, sau gần hai mươi năm, cá nhân tôi thấy có một người làm thơ tương thích với hai ý niệm “nước rút” và, “đường trường” kia, đó là nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ.

.

blank
Bìa tập thơ “Năm Chữ Ngàn Câu” của Nguyễn Lương Vỵ

2. Nếu tính tới thời điểm cuối 2014 thì thi phẩm “Năm chữ ngàn câu” (1) của Nguyễn Lương Vỵ là thi phẩm thứ 9, kể từ tuyển tập “Âm vang và sắc mầu” xuất bản tại Saigon, 1991.

Những ai từng theo dõi hành trình thi ca của Nguyễn, hẳn còn nhớ, cuối thập niên 1960s, Nguyễn Lương Vỵ đã góp mặt trên tạp chí Văn, Saigon, với một bài thơ chỉ có 4 câu. Bài thơ hiện ra như một đường kiếm huê dạng, khác, lạ hẳn với những bài thơ cùng thời của những tác giả trẻ, mới nhập cuộc, mới lên đường, thời đó:

“Lung linh hồn quê cũ
Mây trắng phủ khắp trời
Nhớ trăng khô hết máu
Muôn trùng dặm núi ơi”.
(Nguyễn Lương Vỵ, “Nửa đêm thức dậy nhìn mây trắng”) (2)

Những người chú ý tới tiếng thơ lạ này, càng ngạc nhiên hơn nữa, khi được biết mấy câu thơ trên, được viết xuống, khi tác giả chỉ mới 16 tuổi.

Không lâu sau đó, những bài thơ kế tiếp của Nguyễn, vẫn cho thấy khả năng bứt phá, kiến tạo một hướng đi lẻ, hiếm, như:

“Biển đắp một tòa sương
Lạnh đôi bờ vú nhỏ
Nàng tắm trong tịch dương
Núi gầm lên khóc nhớ…”
(Nguyễn Lương Vỵ, “Cảm ứng”) (3)

Kể từ đấy, tới hôm nay, mỗi thi phẩm của Nguyễn Lương Vỵ là một thao-thiết mở ra những cánh cửa khác, cho ngôi nhà thi ca của mình.

Kể từ đấy, tới hôm nay, mỗi thi phẩm của Nguyễn Lương Vỵ là một đầu tư trí tuệ cật lực mở vào những chân trời mới.

Và, hôm nay, những người quan tâm tới cõi-giới thơ Nguyễn Lương Vỵ không còn lo lắng: Về đường trường tiếng thơ Nguyễn, có thể sẽ sớm rơi vào tình trạng đuối sức, “mất lửa”; khi qua gần 200 trang “Năm chữ ngàn câu” của ông, người đọc sẽ gặp được một cách dễ dàng (tới thảng thốt), những câu thơ lạ, mới như:

“Ngày rớt qua kẽ tay
Tháng rơi theo bóng ngày

Nghe năm cùng tháng tận
Nhìn bóng lửng hình lay
Sắc mầu im lắng nở
Âm vang nín lặng bay
Là lúc mùa giáp hạt
Em rớt qua kẽ tay”.
(Nguyễn Lương Vỵ, trích “Mùa giáp hạt”)

Hoặc:

Tuổi thơ cha khuất bóng
Tuổi già mẹ khóc con
Ta gặm câu thơ mòn
Chữ vô hồn vô nghĩa
Khói nhang rưng mộ địa
Em bay đi xa rồi
Trời đất vốn mồ côi
Vốn mịt mù huyễn mộng
Tiếng ma tru bi thống
Hay tiếng em gọi ta?!
(Nguyễn Lương Vỵ, trích “Hát khẽ bên mồ II”)

Hoặc nữa:

Câu thơ bay đi xa
Chẳng còn ai nhớ nữa
Chiều vàng vừa khép cửa
Đêm thu khoác vai ta
Chiếc lá khô nhớ nhà
Cây im không dám nhắc
Đất lạ trầm âm nhạc
Trời quen bóng phố gầy
Hỏi thăm nhau bóng lay
Tìm tay nhau bóng vỡ
(Nguyễn Lương Vỵ, trích “Không đề VIII”)

Vân vân…

.

3. Không kể thơ tự do, những thể thơ phổ cập tại quảng trường thi ca Việt, có thể liệt lê như: Năm chữ, bảy chữ, tám chữ và, lục bát!

Mỗi thể thơ, tự thân, đều có những ưu khuyết riêng và, sự đắc dụng của mỗi thể thơ, lại tùy nơi tài năng mỗi tác giả.

Với tôi, ba thể thơ dễ rơi vào tình trạng dư, thừa chữ là thơ bảy chữ, tám chữ và, lục bát. Thể thơ 6/8 này thường được các nhà thơ dùng để viết trường khúc hay, để thù tạc, đổi chác chút thực dụng! Có dễ vì thế mà, tôi nhớ, đã lâu, một tác giả từng viết xuống, đại ý, nếu phải đọc vài ngàn câu lục bát, để tìm cho được một câu lục bát hay thì, quá khổ cho người đọc!!! Nếu không muốn nói nó giống như một hình thức tra tấn trắng vậy…

(Tới giờ, chúng ta chỉ có duy nhất một Nguyễn Du, vị cha già của 6/8 trường thiên này mà thôi).

Đứng trước những thể thơ dễ dư, thừa chữ, thì thể thơ bốn và, năm chữ, được ghi nhận là hình thức tinh ròng, chắt lọc hơn cả.

Tuy nhiên, các nhà thơ của chúng ta hầu như ít ai muốn vũ lộng tài năng mình, với thể thơ 4 chữ - - Vì nó gần với “vè”. Nên hầu hết đều tìm đến với thơ 5 chữ.

Phải chăng cũng chính vì tính chắt lọc, kiệm chữ của thể thơ 5 chữ, mà nhiều kinh kệ đã chọn thể thơ này, để chuyển tải những ý nghĩa uyên áo của lẽ đạo?

Lại nữa, vẫn theo tôi, cũng chính vì tính chắt lọc, kiệm chữ của thể thơ 5 chữ, khiến rất ít thi sĩ chọn thể thơ này cho những trường thiên của họ.

Nói cách khác, nếu một thi sĩ không đủ hội đủ những yếu tố như nội lực, bề dầy kinh nghiệm sống, không kinh qua những thảm kịch dữ dội, khốc liệt trong đời thường …không ai muốn trở thành lố bịch hoặc, tự hủy mình bằng thử thách chinh phục đỉnh-núi-trường-thi-ngũ-ngôn.

Tôi nghĩ, tôi không hề bất cập khi kết luận: Nguyễn Lương Vỵ là người hội đủ những yếu tố cần thiết để chinh phục đỉnh-núi-trường-thi-ngũ-ngôn, vừa kể.

Nguyễn không chỉ có được cho mình một nội lực thi ca thâm hậu, một đam mê quyết liệt tới mức sẵn lòng đánh đổi mọi tiện nghi, may mắn (?) đời thường và, nhất là những thảm kịch, ngộ nhận mà Nguyễn đã trải qua tự những ngày thơ ấu tới hôm nay!…Tất cả vẫn còn đeo đẳng Nguyễn, như thể, đó mới chính là chiếc bóng, thẻ nhận dạng, song hành cùng Nguyễn trong cuộc trường chinh chữ, nghĩa mang tính sử-thi trên lộ trình thi ca của riêng ông…

Với tôi, sự kiện ấy còn mang tính nhất quán: Tính độc-hành của một Nguyễn Lương Vỵ, thi sĩ, từ khởi đầu, quá khứ; tới “Năm chữ ngàn câu”, hôm nay, khi ông đã bước qua tuổi sáu mươi - - Giữa nhân gian trợn trắng bi ai này.

Du Tử Lê,

(Calif. Dec. 2014)

……………

Chú thích:

(1) “Năm chữ ngàn câu”, Q&P hợp tác với nhà XB Sống, ấn hành, California, Dec. 2014.

(2) Trích Du Tử Lê, “Phác họa toàn cảnh sinh hoạt 20 năm VHNT miền Nam (1954-1975)”, quyển 1, trang 449. Người Việt Books ấn hành, California, 2014.

(3) Sđd.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Giới yêu hội họa, hẳn nhiên, đều biết tác phẩm Em Thúy của họa sĩ Trần Văn Cẩn. Bức danh họa này hoàn tất vào năm 1943, và “đã được công nhận là Bảo vật quốc gia.” Tuy thế, không mấy ai để ý là có đến hai phụ nữ tên Nguyễn Thị Minh Thúy (và hai đều được dư luận nhắc đến như là nguyên mẫu của tác phẩm nổi tiếng trên) nhưng cuộc đời của họ lại hoàn toàn khác hẳn nhau.
Việt Nam muốn nâng cấp ngoại giao với Mỹ làm gì là câu hỏi được đặt ra, sau khi Tổng thống Joe Biden tiết lộ vào ngày 28/7/2023 rằng: "Tôi nhận được cuộc gọi từ người đứng đầu Việt Nam, rất muốn gặp tôi khi tôi tới G20. Ông ấy muốn nâng tầm để Mỹ thành đối tác lớn, cùng với Nga và Trung Quốc"...
Tôi nghe T.S Mạc Văn Trang than phiền mà không khỏi sinh lòng ái ngại: “Bớt ‘nổ’ đi, bớt ‘diễn’ đi, Trung ương ‘diễn’ một thì cơ sở ‘diễn’ mười, cái gì cũng ‘diễn’ thành lố bịch, ấu trĩ, dối trá, đạo đức giả. Những cái đó ảnh hưởng xấu đến văn hoá, đạo đức toàn xã hội.” Nói thế e có (hơi) quá lời chăng? Khối vở “diễn” vui lắm chớ, tuy tình tiết thì “lố bịch” thật nhưng cũng chả gây “ảnh hưởng xấu xa” gì (mấy) nên vẫn được tái diễn hăng năm.
Chuyện thanh niên trong nước chán Mác và hết muốn nghe theo Bác, phai nhạt lý tưởng, thờ ơ với Đảng là mối lo hàng đầu hiện nay của đảng CSVN. Vấn đề này không mới, nhưng lại được các cơ quan báo chí, truyền thông của đảng nhắc đi lặp lại mãi chứng tỏ tình hình mỗi ngày một nghiêm trọng, nhất là khi các chứng bệnh tham nhũng, “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” lan rộng trong đảng viên, từ cơ sở lên trung ương...
Thử nghĩ xem: mỗi đồng chí lãnh đạo chỉ cần (độ) vài triệu dollar, cùng với năm ba cái biệt phủ hay biệt thự là… đã đủ rồi, đủ cho một cuộc sống ung dung (có thể kéo dài đến vài thế hệ) nếu đừng phung phá quá...
Ngày 18 tháng Bảy 2023, gia đình của bị cáo Phạm Trung Kiên, trong vụ án « chuyến bay giải cứu », đã tức tốc nộp thêm 8 tỷ đồng cho cơ quan chức năng sau khi bị đề nghị án tử hình. Trước đó, gia đình ông Kiên đã nộp hai lần để « khắc phục hậu quả » : lần đầu 12 tỷ đồng, lần sau 15 tỷ đồng. Báo chí chính quyền còn cho biết ông Phạm Trung Kiên đã hứa sẵn sàng nộp thêm tiền để hy vọng giảm án...
Hôm 25 tháng 5 năm 2016, Pearl Pinson (một nữ sinh 15 tuổi) bị bắt cóc khi đang trên đường đến trường và biệt tích luôn kể từ ngày đó. Tuy hơn 7 năm đã qua nhưng thân nhân của em vẫn cứ nuôi hy vọng là sẽ có ngày đoàn tụ, nhân viên điều tra vẫn không ngưng việc kiếm tìm, và báo giới (hàng năm) vẫn không ngừng nhắc nhớ đến câu chuyện buồn lòng này.*
Cứ mỗi lần cầm bút là Lê Anh Hùng nghĩ đến ba đứa con thơ. Người đàn ông 38 tuổi này đã hai lần vào tù, vì viết blog về nhân quyền và nạn hối lộ, hiện đang sống phấp phỏng trong căn nhà của ông ở Hà Nội. Tuy thế, ông nói, ‘Tôi biết điều mình lựa chọn là nguy hiểm nhưng tôi chấp nhận trận chiến này...
Thất bại trong phòng, chống tham nhũng của CSVN xem như đã vĩnh viễn, không còn cứu được nữa. Bằng chứng này dựa vào những tuyên bố của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và các viên chức có trách nhiệm trong “quốc nạn” này...
Tôi “nhặt” được câu danh ngôn (thượng dẫn) trong Chuyện Kể Năm 2000, tập II, của Bùi Ngọc Tấn. Chỉ có điều đáng tiếc là tác giả quên ghi rõ là đồng chí TBT nào đã phát biểu một câu nói “đắt giá” tới cỡ đó. Mãi đến khi cùng cụng ly với tác giả ở California (ông chơi một ly sinh tố to đùng, ngó mà ớn chè đậu) tôi mới có dịp nêu thắc mắc, và nhận được câu trả lời hóm hỉnh : “Thì ông TBT nào mà chả nói thế.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.