Hôm nay,  

Luật Quốc Tế Nhân Quyền và Trách Nhiệm Nhà Nước

08/07/201400:00:00(Xem: 3511)

Trước khi tìm hiểu Luật Quốc Tế Nhân Quyền và trách nhiệm của nhà nước, chúng ta cần duyệt qua định nghĩa Nhân Quyền là gì.

Một cách ngắn gọn và đơn giản, ta có thể nói Nhân Quyền là những quyền làm người căn bản và phổ quát, không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, chính kiến hay giới tính nam, nữ. Đó là những quyền Tự Do căn bản, như tự do sinh sống và mưu cầu hạnh phúc, tự do đi lại và cư trú, tự do sở hữu tài sản, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do sinh hoạt chính trị, tự do ứng cử và tự do bầu cử người đại diện cho mình để điều hành việc nước.

Nhân Quyền không phải do chính phủ hay bất cứ ai cấp phát, mà đó là những quyền do tạo hóa ban cho. Mọi người từ lúc mới sinh ra đã đương nhiên có những quyền ấy và không ai có quyền cướp đoạt.

Bối Cảnh Lịch Sử

Theo đà tiến hóa của nhân loại, ý thức về Nhân Quyền càng ngày càng được phát huy. Đặc biệt là sau hai lần đại chiến thế giới đã gây ra biết bao đổ vỡ và tang tóc với hàng triệu người dân vô tội và binh sĩ đã bị tử nạn hoặc tàn phế, nhân loại đã bừng tĩnh và ý thức rằng chính các chế độ độc tài phi nhân, khinh rẽ mạng sống con người và chà đạp nhân quyền đã là nguyên nhân đưa đến thảm họa và đại bất hạnh cho loài người trong tiền bán thế kỷ 20.

Vì thế, vào mùa Xuân năm 1945 trước khi đệ nhị thế chiến kết thúc, 50 quốc gia đã tham dự một hội nghị quốc tế tại San Francisco để ký kết Hiến Chương thành lập Liên Hiệp Quốc (LHQ) nhằm mục đích duy trì hòa bình thế giới và tránh đại họa của một cuộc thế chiến thứ ba có thể hủy diệt loài người trên địa cầu nầy vì bom nguyên tử.

Một trong những công tác quan trọng đầu tiên mà LHQ đã thực hiện là thành lập Ủy Ban Nhân Quyền từ đầu năm 1946 nhằm soạn thảo một văn kiện để minh định và đề cao Nhân Quyền và những quyền Tự Do căn bản, phổ quát trên toàn cầu, đồng thời đòi hỏi các quốc gia hội viên LHQ phải đề cao lý tưởng tôn trọng Nhân Quyền.

Để thực hiện dứ án đó, Ủy Ban Nhân Quyền đã quy tụ hơn 50 chuyên gia lỗi lạc trong giới luật sư, sử gia, nhà văn, nhà báo, triết gia và chính khách từ Nam Mỹ, Phi Châu, Úc, Anh, Pháp, Mỹ, Nga, Trung Hoa và nhiều nước trên thế giới. Sau ba năm bàn thảo và biên soạn, cuối cùng bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (Universal Declaration of Human Rights) đã được Đại Hội Đồng LHQ thông qua ngày 10-12-1948, đánh dấu một bước tiến lớn lao của cộng đồng nhân loại văn minh.

Nội Dung bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền

Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền gồm có hai phần, phần đầu là “Lời Mở Đầu” và phần sau là 30 Điều khoản về các nhân quyền căn bản và phổ quát cho toàn thể nhân loại.

Trong phần “Lời Mở Đầu”, Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền đưa ra các nhận định và quan điểm sau đây:

Sự tôn trọng Nhân Phẩm và Nhân Quyền của mọi người trong đại gia đình nhân loại là nền tảng của Tự Do, Công Lý và Hòa Bình thế giới;

Sự khinh rẽ và chà đạp Nhân Quyền đã đưa đến chiến tranh khốc liệt, dã man.

Ước vong của mọi người khắp nơi là được sống trong An Lạc và Tự Do;

Mọi quốc gia phải thiết lập các chế độ pháp trị để bảo vệ Nhân Quyền, giúp dân chúng không bao giờ bị dồn vào thế cùng đến nỗi họ phải đứng lên chống lại bạo quyền, áp bức;

Mọi quốc gia phải duy trì và phát triển các quan hệ hợp tác trong hòa bình vì lợi ích chung;

Mọi quốc gia hội viên LHQ khẳng định niềm tin vào Nhân Quyền, Nhân Phẩm và Giá Trị của con người và quyết tâm xây dựng một xã hội an lạc, tiến bộ ngõ hầu dân chúng được sống trong Tự Do và Dân Chủ;

Mọi quốc gia hội viên long trọng cam kết hợp tác với LHQ trong sứ mệnh đề cao và thực thi Nhân Quyền và những quyền Tự Do căn bản.

Tiếp theo “Lời Mở Đầu” là nội dung 30 Điều Khoản về Nhân Quyền căn bản và phổ quát trên toàn cầu. Theo Luật Sư Nguyễn Hữu Thống, Cố Vấn của Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam, một cách khái quát và dễ hiểu, tất cả các Nhân Quyền có thể được xếp thành ba bậc, đó là:

Nhân Quyền bậc nhất, từ Điều 1 đến Điều 12, là các quyền tự do thân thể. Quyền nầy gồm có quyền sống, quyền không bị tra tấn, hành hạ hay làm nô lệ; quyền sống an lạc, không bị bắt bớ, giam cầm trái phép; khi bị truy tố được xét xử công khai và công bằng bởi một tòa án độc lập và vô tư, có luật sư biện hộ và được hưởng quyền bình đẵng trước pháp luật.

Nhân Quyền bậc hai, từ Điều 13 đến Điều 17, là các quyền an cư và quyền lạc nghiệp.

Quyền an cư gồm các quyền tự do cư trú, đi lại; tự do xuất ngoại và hồi hương;

quyền riêng tư cá nhân, gia đình, nơi cư trú, thư từ và quyền sở hữu tài sản.

Quyền lạc nghiệp là các quyền về kinh tế, xã hội, văn hóa và giáo dục.

Các quyền nầy gồm quyền có công ăn việc làm, được đối xử công bằng và hưởng thù lao tương xứng, quyền tham gia nghiệp đoàn độc lập, quyền đình công, quyền được bảo hiểm và được giáo dục.

Nhân quyền bậc ba, từ Điều 18 đến Điều 29, gồm những quyền tự do tinh thần và tự do chính trị.

Quyền tự do tinh thần gồm các quyền tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và tự do báo chí.

Quyền tự do chính trị gồm các quyền tự do hội họp, tự do lập hội và tự do bầu cử và ứng cử.

Đặc biệt Điều 30 của bản Tuyên Ngôn đã nhấn mạnh rằng không một cá nhân, tổ

chức hay quốc gia nào, vì bất cứ lý do gì, được quyền hủy bỏ hay chống lại các quyền Tự Do đã được LHQ ghi trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.

Nhưng dù sao Tuyên Ngôn chỉ là một văn kiện nêu lên lý tưởng đề cao Nhân Quyền, nó không có giá trị cưỡng hành. Do đó, sau gần hai mươi năm từ ngày bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền ra đời, tình trạng vi phạm nhân quyền trên thế giới nói chung vẫn chưa được cải tiến nhiều như LHQ mong muốn.

Vì vậy, vào năm 1966, Đại Hội Đồng LHQ đã thông qua hai hiệp ước quốc tế, đó là Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị, và Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa. Quốc gia nào muốn tham gia thì phải ký kết sau khi đã được quốc hội phê chuẩn. Từ đó, bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền kết hợp với hai Công Ước nầy để trở thành Luật Quốc Tế Nhân Quyền (The International Bill of Human Rights). Bộ luật nầy có giá trị cao hơn luật pháp của bất cứ quốc gia nào.


Tuyên Ngôn về Quyền và Trách Nhiệm của Cá Nhân, Hội Đoàn và Chính Phủ trong việc Đề Xướng và Bảo Vệ Nhân Quyền và Các Quyền Tự Do Căn Bản

Năm 1998, nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày công bố bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, sau khi duyệt lại tình hình Nhân Quyền trên thế giới trong nửa thế kỷ qua, LHQ thấy rằng tình hình Nhân Quyền nói chung tuy đã được cải tiến đáng kể, nhưng tại nhiều quốc gia, Nhân Quyền vẫn còn bị chà đạp nặng nề, mà nguyên nhân chính là vì hai lý do sau đây:

Thứ nhất, phần đông dân chúng tại nhiều nơi vẫn chưa hiểu rõ các Nhân Quyền vì họ chưa hề nghe nói và chưa được giải thích về Luật Quốc Tế Nhân Quyền;

Thứ hai, nhà cầm quyền tại các nước độc tài không những không đề cao Nhân Quyền như LHQ kỳ vọng mà còn ngăn cấm mọi nỗ lực quảng bá và giáo dục dân chúng am hiểu vấn đề Nhân Quyền.

Vì vậy, vào ngày 9-12-1998, Đại Hội Đồng LHQ đã thông qua Nghị Quyết 53/144, tức Tuyên Ngôn về Những Quyền và Trách Nhiệm của Cá Nhân, Hội Đoàn và Cơ Quan trong xã hội phải đề xướng và bảo vệ Nhân Quyền và Quyền Tự Do căn bản đã được thừa nhận trên toàn cầu nhằm hai mục tiêu quan trọng sau đây:

Thứ nhất, xác định quyền và nghĩa vụ của mọi cá nhân và các hội đoàn ngoài chính phủ trong nỗ lực đề xướng và bảo vệ Nhân Quyền và những quyền tự do căn bản phổ quát trên toàn cầu;

Thứ hai, đòi hỏi các chính phủ, các cơ quan của LHQ và các tổ chức trong và ngoài chính phủ phải tăng cường nỗ lực quảng bá một cách rộng rãi và giảng dạy nội dung bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và bản Ngị Quyết 53/144 của LHQ về Nhân Quyền cũng như các Công Ước Quốc Tế về Nhân Quyền để cổ võ lý tưởng tôn trọng Nhân Quyền, giúp mọi người khắp nơi trên thế giới am hiểu tường tận nội dung và sự quan trọng của các văn kiện pháp lý quan trọng nầy.

Nội Dung Nghị Quyết 53/144 của LHQ

Nghị Quyết 53/144 của LHQ gồm có 20 Điều khoản, trong đó có những Điều khoản nói về quyền và nghĩa vụ của cá nhân và tổ chức ngoài chính phủ và những Điều khoản nói về trách nhiệm của chính phủ trong việc quảng bá, bảo vệ Nhân Quyền và các quyền Tự Do căn bản của người dân. Đại để có thể tóm lược như sau.

Quyền và Nghĩa Vụ của cá nhân và tổ chức ngoài chính phủ

Nghị Quyết 53/144 của LHQ khẳng định cá nhân và tổ chức ngoài chính phủ có những quyền và nghĩa vụ sau đây;

Quyền đề xướng và đòi hỏi Chính Phủ thực thi Nhân Quyền trên bình diện quốc gia và quốc tế;

Quyền hội họp, thành lập và tham dự các tổ chức ngoài chính phủ;

Quyền phát biểu và thảo luận, trao đổi ý kiến về Nhân Quyền và Tự Do, Dân Chủ;

Quyền được tham chính trực tiếp hay gián tiếp và quyền nầy bao gồm cả quyền đề nghị, phê phán và chỉ trích chính sách, đường lối và các việc làm của Nhà Nước;

Trong mọi sinh hoạt, cá nhân và tổ chức ngoài chính phủ phải tôn trọng Nhân Quyền và các quyền Tự Do căn bản của người khác;

Cá nhân và tổ chức ngoài chính phủ có nghĩa vụ tham gia các hoạt động giáo dục, huấn luyện và nghiên cứu về Nhân Quyền và các quyền Tự Do căn bản nhằm gia tăng kiến thức, tình hữu nghị và sự thông cảm giữa các tôn giáo, chủng tộc và quốc gia;

Cá nhân nào cũng có nghĩa vụ đối với cộng đồng trong đó nhân cách mọi người có thể được phát triển tự do và tốt đẹp;

Cá nhân và tổ chức ngoài chính phủ có nghĩa vụ và trách nhiệm đề xướng Nhân Quyền và góp phần phát huy các tổ chức xã hội dân sự và các định chế dân chủ để xây dựng xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.

Trách Nhiệm của Chính Phủ

Nghị Quyết 53/144 của LHQ khẳng định chính phủ giữ vai trò nòng cốt và tối quan trọng trong việc thực thi Nhân Quyền với những trách nhiệm sau đây:

Quảng bá và bảo vệ Nhân Quyền và những quyền Tự Do căn bản của mọi người bằng cách tạo các điều kiện cần thiết về giáo dục, xã hội, kinh tế, luật pháp và chính trị nhằm bảo đảm dân chúng được hưởng trọn vẹn Nhân Quyền và các quyền Tự Do căn bản đã được LHQ quy định;

Ban hành các văn kiện lập pháp và lập quy để bảo đảm Nhân Quyền và những quyền Tự Do đã ghi trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền được nghiêm chỉnh thực thi và tôn trọng;

San định Hiến Pháp và luật pháp quốc gia phù hợp với Hiến Chương và Luật Quốc Tế Nhân Quyền của LHQ;

Đề xướng và phổ biến đến dân chúng các quyền làm người trong mọi lãnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa;

Đăng tải và phổ biến rộng rãi tất cả các văn kiện của bộ Luật Quốc Tế Nhân Quyền và các bản phúc trình về tình hình Nhân Quyền mà chính phủ phải đệ nạp cho các cơ quan LHQ;

Khởi xướng và hỗ trợ các nỗ lực bảo vệ Nhân Quyền như việc thành lập Ủy Ban Nhân Quyền quốc gia và Ủy Ban Điều Tra các Vi Phạm Nhân Quyền, v.v.

Tổ chức và yễm trợ các chương trình giảng dạy tại các trường môn Nhân Quyền và những quyền Tự Do căn bản của mọi người. Đặc biệt Luật Quốc Tế Nhân Quyền phải được giảng dạy trong các khóa huấn luyện luật sư, biện lý và lực lượng công an, cảnh sát vì chức nghiệp của họ đòi hỏi họ phải am tường để không vi phạm Nhân Quyền của dân chúng.

Với Nghị Quyết 53/144, LHQ đã minh định các quyền và nghĩa vụ của cá nhân và tổ chức ngoài chính phủ, đòi hỏi ai cũng phải học hỏi và am tường các quyền và nghĩa vụ của mình trong Luật Quốc Tế Nhân Quyền. Đồng thời vai trò và trách nhiệm nặng nề của chính phủ trong sứ mạng quảng bá và bảo vệ Nhân Quyền cũng đã được LHQ quy định một cách rõ ràng.

Riêng trường hợp Việt Nam là quốc gia đã gia nhập LHQ từ năm 1977 và đến năm 1982 đã ký kết với LHQ Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị và Công Ước Quốc Tế về Những Quyền Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa, rồi đến tháng 11 năm 2013, đã được bầu vào Hội Đồng Nhân Quyền của LHQ, do đó, nhà cầm quyền Việt Nam phải tôn trọng và nghiêm chỉnh thực thi Nhân Quyền và Tự Do của dân chúng.

Nguyễn Thanh Trang

Mạng Lưới Nhân Quyền

Ghi Chú: Quý vị có thể tham khảo các văn kiện của bộ Luật Quốc Tế Nhân Quyền, tiếng Anh hay tiếng Việt, bằng cách vào trang nhà của Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam, tại địa chỉ: www.vietnamhumanrights.net

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cuộc bầu cử tổng thống lần thứ 8 tại Đài Loan đã được tổ chức vào ngày 13/1 với kết quả là ông Lại Thành Đức Phó chủ tịch Đảng Dân tiến (Democratic Progressive Party, DPP) thắng cử...
Chúng ta đang làm nhân chứng cho một cuộc bầu cử kỳ quặc và đa sự chưa từng xảy ra trong lịch sử đầu phiếu ở Hoa Kỳ. Có thể nói, không chỉ lịch sử, mà rộng lớn hơn, chính là "sự cố" văn hóa chưa từng thấy. Bước vào năm 2024, sự tranh đua giữa hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ càng gay go, khốc liệt với âm mưu, độc kế, thủ đoạn, ám toán, bôi nhọ, mánh mung, để xem ai sẽ là chủ nhân của ngôi Nhà Trắng trong bốn năm tới. Tất cả những ý nghĩ, hành vi đó đều gôm vào chính sách, chiến lược và chiến thuật vận động bầu cử. Bạn đọc sẽ có dịp theo dõi các thầy bàn người Mỹ và thầy bàn người Việt (trong và ngoài nước) phong phú hóa, hư cấu hóa, ảo tưởng hóa về việc bầu cử, tạo ra câu chuyện nửa thực, nửa hư, thú vị, bất ngờ với giận dữ và thất vọng, sung sướng và buồn bã, rung đùi và cụng ly, nguyền rủa và chửi bới, vân vân. Thông thường những luận lý, âm mưu, phê phán, dự đoán đó… được mổ xẻ qua kiến thức và kinh nghiệm tây phương, nơi có hàng ngàn sách vở nghiên cứu chính trường, chính đạo,
Chúng ta đang bước vào năm bầu cử. Năm 2024 sẽ có một cuộc bầu cử có tính quyết liệt, vì các lựa chọn chắc chắn sẽ gây tranh cãi trong nội bộ cộng đồng gốc Việt, trong các gia đình người Việt, giữa các lựa chọn về cấp tiến và bảo thủ, giữa các thế hệ trẻ và già ở hải ngoại. Và chắc chắn là bầu cử tháng 11/2024 tại Hoa Kỳ sẽ ảnh hưởng tới cuộc chiến Trung Đông, cuộc chiến ở Ukraine, và ở cả Đài Loan. Tác động như thế nào, chúng ta khó đo lường hết tất cả các ảnh hưởng. Trong đó, một tác động lớn là từ tin giả, nói kiểu Mỹ là Fake News, tức là tin không thật.
Tôi rất thích khoa nhân chủng nhưng không có cơ may đến trường để được truyền thụ một cách bài bản về ngành học thú vị này. Hoàn cảnh sống, nói nào ngay, cũng không mấy thích hợp cho nhu cầu tự học. Suốt ngày (và suốt đời) tôi chỉ loanh quanh hàng quán nơi mà những kẻ hay lê la thường nói rất nhiều, dù sự hiểu biết của họ vốn không được bao nhiêu. Ngoài giới hạn về kiến thức, mấy ông bạn đồng ẩm còn có cái tật rất hay tranh cãi (và luôn cãi chầy cãi cối) nên mọi thông tin, từ bàn nhậu, đều không được khả xác hay khả tín gì cho lắm.
“Tham nhũng chính trị, lệch lạc tư tưởng, băng hoại đạo đức và hủ bại về lối sống. Đây là những kẻ thù rất nguy hiểm của Đảng, cần phải loại bỏ.” Tạp chí Xây Dựng Đảng (XDĐ) đã báo động như thế trong bài viết ngày 26/11/2023...
Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) nhìn nhận tình trạng “trẻ hóa” trong suy thoái “tư tưởng chính trị ” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang gây khó khăn cho công tác “xây dựng, chỉnh đốn đảng”...
Năm 2024 là năm bầu cử, một năm gay go thử thách, và đề tài yêu ghét dù muốn hay không muốn đã trở lại trên các trang báo, trong các buổi tranh luận trong gia đình, ngoài xã hội. Chúc bàn tiệc trong năm của quý vị rôm rả những câu chuyện, những cuộc đối thoại bổ ích hai chiều, những thay đổi tốt đẹp. Và xin cảm ơn quý thân hữu, thân chủ đã hỗ trợ, gắn bó cùng hành trình với Việt Báo trong hơn 31 năm qua. Sau cùng là lời tri ân đến các độc giả Việt Báo: chính quý vị, những người đọc khó tính là thành trì giúp Việt Báo trở thành một tờ báo uy tín, chuyên nghiệp.
Năm 2023 tiến vào những ngày cuối cùng, nó sẽ đi qua và không bao giờ trở lại. Lịch sử sẽ đi qua nhưng những việc làm của con người sẽ tồn tại với sự khôn ngoan và ngu ngốc của đa số. Cụm từ ‘con-người-đa-số’ chỉ định ý muốn chung của đa số người. Và ‘con-người-thiểu-số’ đành phải tuân theo. Trò sinh hoạt dân chủ luôn luôn là con dao hai lưỡi có hiệu quả tùy thuộc sở thích của con người đa số. Sở thích? Một thứ tạo ra tốt lành hoặc khổ nạn. Đúng ra là cả hai, nhưng có một trong hai sẽ lớn hơn, đôi khi, lớn gấp bội phần. Nếu khổ nạn quá lớn thì cuộc sống chung sẽ thay đổi, có khi lâm vào mức tồi tệ. Chẳng hạn như trường hợp nước Đức dưới thời Hitler. Ý muốn của con người đa số đam mê nồng nhiệt ý muốn của Hitler. Cho ông ta cơ hội dẫn đầu một quốc gia quyền lực, tạo ra hiệu quả cuộc chiến thế giới thứ hai. Hậu quả tàn khốc đó do ai? Hitler? Đúng một phần.
“Tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong Lực lượng vũ trang nhân dân là mối lo hàng đầu của đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Bằng chứng này đã được Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đưa ra tại Hội nghị Đảng ủy Công an ngày 20/12/2023 tại Hà Nội, và trong nội dung các bài viết trên báo chí chính thống của nhà nước liên quan đến Quân đội...
Người ta nên áp dụng đạo đức vào tài chính trị của Henry Kissinger như thế nào? Làm thế nào để người ta quân bình những thành tựu với những hành vi sai trái của Kissinger? Tôi đã vật lộn với những vấn đề đó từ khi Kissinger là giáo sư của tôi, và sau này là đồng nghiệp tại Đại học Harvard. Vào tháng Tư năm 2012, tôi đã giúp phỏng vấn ông trước một số lượng lớn cử toạ tại Harvard và hỏi liệu ông có làm điều gì khác đi trong thời gian làm ngoại trưởng cho các Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon và Gerald Ford không. Lúc đầu, ông nói không. Suy nghĩ lại, ông nói rằng ước mình là đã hoạt động tích cực hơn ở Trung Đông. Nhưng ông không đề cập đến Campuchia, Chile, Pakistan hay Việt Nam. Một người phản đối ở phía sau hội trường hét lên: "Tội phạm chiến tranh!"
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.