Hôm nay,  

Điểm Lật Minsky Của Trung Quốc

6/4/201400:00:00(View: 7184)

Nghĩa là sẽ rơi xuống vực!

Như đã hẹn, Diễn đàn Kinh tế lại nhắc tới hiện trạng kinh tế của Trung Quốc, lồng trong biến cố xảy ra 25 năm trước mà đa số giới trẻ tại xứ này, và nhiều xứ khác, có thể lãng quên hoặc không biết. Đó là vụ khủng hoảng tại quảng trường Thiên An Môn vào Tháng Sáu năm 1989 khiến cả ngàn sinh viên bị quân đội tàn sát. Xin quý thính giả theo dõi cuộc trao đổi của Vũ Hoàng với chuyên gia Nguyễn-Xuân Nghĩa, tư vấn kinh tế của đài Á Châu Tự Do.

Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, mùng bốn Tháng Sáu năm 1989, đúng 25 năm trước, quân đội Trung Quốc tiến vào Bắc Kinh đẹp cuộc biểu tình của sinh viên và mở ra cuộc tàn sát khiến cả ngàn người thiệt mạng. Nhà nước Bắc Kinh ém nhẹm biến cố này, và âm thầm tiến hành việc kiểm soát an ninh vì sợ người dân tổ chức sinh hoạt tưởng niệm. Truyền thông quốc tế có theo dõi chuyện ấy và nói đến sự thờ ơ hay lãng quên của giới trẻ tại Trung Quốc vì nhiều người không hề được biết gì về vụ thảm sát. Trong khi đó, hôm Thứ Hai vừa qua, các thị trường tài chính Á châu đã lên giá, một phần là do một chỉ số thống kê về đơn đặt hàng chế biến tại Trung Quốc trong Tháng Năm, khiến người ta dự đoán tình hình kinh tế khả quan hơn. Như đã hẹn, chương trình kỳ này xin đề nghị là ông phân tích lại về kinh tế Trung Quốc, đặt trong một bối cảnh dài là vụ khủng hoảng Thiên An Môn. Ông nghĩ sao?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ rằng Trung Quốc vẫn là một quốc gia không bình thường khi lãnh đạo giấu nhẹm một vụ tàn sát thường dân và chỉ phô trương thành quả kinh tế như lý do lãnh đạo chính đáng của đảng Cộng sản.

- Tôi xin lấy một thí dụ, sử sách Trung Quốc viết nhiều về vụ thảm sát Nam Kinh do quân Nhật gây ra năm 1937 và cứ nhắc chuyện đó để khơi dậy lòng căm thù trong công chúng mà hoàn toàn không có một chữ về việc lãnh đạo thời đó là ông Đặng Tiểu Bình ra lệnh cho quân đội vào giết người dân tại quảng trường Thiên An Môn của thủ đô. Họ không bạch hóa và chịu trách nhiệm về một quyết định đối với công dân của họ mà chỉ đòi nước khác phải hối lỗi và xin lỗi về những gì đã thi hành tại Trung Quốc trong lịch sử.

Vũ Hoàng: Trước hết, xin ông nhắc tại vụ Thiên An Môn của 25 năm trước, rồi chúng ta sẽ trở về chuyện kinh tế ngày nay.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trung Quốc bắt đầu cải cách kinh tế từ dầu năm 1979, 10 năm sau thì bị những mâu thuẫn khó giải quyết. Về kinh tế thì có nguy cơ lạm phát và về chính trị thì có nạn tham nhũng trong bộ máy công quyền. Ngày 15 Tháng Tư năm 1989, nguyên Tổng bí thư là Hồ Diệu Bang từ trần. Ông ta là nhân vật cải cách và vì chối từ việc đàn áp trí thức hai năm trước nên bị Đặng Tiểu Bình và Bộ Chính trị hạ bệ để đưa Triệu Tử Dương lên làm Tổng bí thư.

- Khi Hồ Diệu Bang tạ thế, người dân xếp hàng mấy cây số để bày tỏ lòng thương tiếc khiến lãnh đạo phải tổ chức lễ quốc táng tại Nhân dân Đại sảnh đường ở Bắc Kinh. Nhân đó, mấy vạn công nhân và sinh viên dâng kiến nghị phản đối nạn vật giá leo thang và thái độ tham ô cửa quyền của đảng viên để yêu cầu Thủ tướng Lý Bằng cải cách.

- Vì nội bộ lãnh đạo chưa thống nhất ý kiến về cách xử trí và trong cả tháng trời, số dân biểu tình lên tới 10 vạn và sinh viên bắt đầu tuyệt thực đòi tự do thông tin và dân chủ. Một tháng sau, giữa Tháng Năm lại có cuộc thăm viếng của Chủ tịch Liên bang Xô viết Michael Gorbachev. Truyền thông quốc tế đến tường thuật cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa lãnh đạo hai nước kể từ ba chục năm cho nên lãnh đạo Bắc Kinh càng phân vân. Họ vừa muốn chứng tỏ với Liên Xô rằng Trung Quốc có tự do hơn vừa sợ là phong trào đấu tranh lan rộng ra nhiều tỉnh mà nội bộ lãnh đạo lại rạn nứt vì nhiều người thông cảm với đòi hỏi của quần chúng, kể cả Tổng bí thư Triệu Tử Dương.

- Sau khi Gorbaehev ra về, lãnh đạo thực tế là Đặng Tiểu Bình cho ban bố lệnh thiết quân luật và đưa ba chục sư đoàn từ năm quân khu ở xa về dẹp loạn tại Bắc Kinh. Báo chí bị đuổi ra ngoài và các đơn vị quân đội tắt đèn nã súng vào dân biểu tình. Số thương vong là bao nhiêu thì không ai biết rõ, có thể tới vài ngàn chứ không phải vài trăm như Quốc vụ viện công nhận.

Vũ Hoàng: Thưa ông, kết cuộc sau đó thì sao?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Khi nhìn lại thì khởi đầu chỉ là phản ứng của quần chúng về kinh tế, mà lại thành phong trào phản kháng chính trị của thanh niên sinh viên làm chế độ rung chuyển đến thượng tầng. Kết cuộc thì Đặng Tiểu Bình có chuyến "Nam tuần" là thăm các tỉnh miền Nam để nhấn mạnh đến việc tiếp tục cải cách kinh tế, nhưng tăng cường kiểm soát chính trị, Tổng bí thư Triệu Tử Dương thì bị cách chức, cầm tù rồi bị quản thúc tại gia cho đến chết, vào năm 2005.

- Đến nay, lãnh đạo Trung Quốc chưa công khai xét lại vụ khủng hoảng và nhận trách nhiệm, nhưng tin là chế độ kiểm soát tư tương, độc tài chính trị và cởi mở kinh tế sẽ hướng tuổi trẻ vào việc làm ăn mà không lý gì đến quyền tự do và dân chủ. Họ có lý phần nào vì đa số thanh niên ngày nay chỉ để ý đến quyền lợi thiết thực mà xa rời lý tưởng và hết biết gì về quá khứ. Còn lại, nếu quần chúng có phản ứng về chuyện tiêu cực trong kinh tế hay xã hội thì lãnh đạo lại dẫn họ vào tinh thần ái quốc và bài ngoại.

- Dù kinh tế có tăng trưởng trong 20 năm sau đó thì chế độ này thật không đáng kính. Huống hồ nay kinh tế lại đi hết chu kỳ tăng trưởng mà vào điểm lật nên bất ổn có thể tái diễn. Đấy cũng là một nguyên nhân khiến lãnh đạo Bắc Kinh mở ra cái hướng bành trướng và gây hấn để huy động quần chúng vào chuyện bên ngoài.

Vũ Hoàng: Ông nói kinh tế Trung Quốc hết đà bành trướng và đi vào "điểm lật", điểm lật ấy là gì? Và ông trả lời sao về chỉ số kinh tế khả quan mà Bắc Kinh vừa mới công bố hôm Thứ Hai?


Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin nêu ý kiến chung về thống kê kinh tế của Trung Quốc rồi ta mới đi vào từng điểm.

- Trước hết, thống kê kinh tế của Trung Quốc có hai nhược điểm là thiếu chính xác về kỹ thuật thu thập, lại thiếu khả tín vì bị xào nấu cải sửa cho mục tiêu chính trị và tuyên truyền. Đây là loại vấn đề cơ bản ta không thể quên được khi nói về kinh tế Trung Quốc. Vì chế độ không có tự do thông tin và lại giỏi gây ra ấn tượng cho thị trường, tức là tuyên truyền, cho nên chính lãnh đạo cũng chẳng biết được thực hư về kinh tế và có thể bị bất ngờ.

- Lẽ thứ hai, kinh tế Trung Quốc có lực đẩy là đầu tư rất cao và mắc nợ rất nhiều nên cứ lao về phía trước và có thể lao vào khủng hoảng. Trong một xứ đất rộng, người đông mà thông tin không chính xác thì thị trường và cả giới kinh tế quốc tế có thể lầm nếu chỉ căn cứ vào số liệu thống kê của một tháng. Thí dụ ông vừa nhắc tới là chỉ số PMI của Trung Quốc.

Vũ Hoàng: Xin ông giải thích cho chỉ số đó là gì.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa chỉ số này gọi là "purchasing managers' index" là kết quả khảo sát doanh nghiệp xem là trong tháng họ nhận được bao nhiêu đơn đặt hàng chế biến, nếu cao hơn số 50 là coi như tương lai sẽ khả quan. Nhưng nếu chỉ nhúc nhích từ số 50,4 lên 50,8 mà vội mừng thì đấy là một sự nông nổi của thị trường. Lý do hơi chuyên môn ở đây là chỉ số này tổng hợp nhiều dữ kiện với các "hệ số gia trọng" để nhấn mạnh đến yếu tố này hay yếu tốc khác. Loại hệ số gia trọng đó là quyết định chính trị, về chính sách, chử không phản ảnh thực tế thị trường. Một thí dụ là ngân hàng Hongkong Shanghai Bank của Anh cũng có hệ thống thu thập chỉ số PMI của kinh tế Trung Quốc mà cứ điều chỉnh liên tục sau khi hồ hởi sảng.

- Đã thế, sau Nghị quyết ba của Hội nghị Trung ương đảng vào tháng 11 năm ngoái, cả Chủ tịch Tập Cận Bình lẫn Thủ tướng Lý Khắc Cường đều nói tới yêu cầu cải cách cơ chế để chú trọng đến phẩm hơn là lượng dù có giảm đà tăng trưởng. Vậy mà khi đà tăng trưởng giảm tới sát mức 7,5% như vào Tháng Ba vừa qua là Bắc Kinh lật đật đưa ra biện pháp kích thích như giảm thuế, gia tăng đầu tư về gia cư, hoả xa hay nhiều dự án khác. Cho nên ta gặp một nghịch lý bất ngờ là khi thấy kinh tế Trung Quốc có đà tăng trưởng cao hơn thì chớ vội mừng và lãnh đạo đừng nên xem đó là thành tích mà nên lo vì kinh tế tiếp tục lao vào điểm lật! Nghĩa là sẽ rơi xuống vực!

Vũ Hoàng: Bây giờ ta mới nói về cái điểm lật này, thưa ông nó là gì vây?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Về bối cảnh, Hoa Kỳ có một giáo sư kinh tế và học giả từng nghiên cứu sâu rộng về các vụ khủng hoảnh tài chính, đó là ông Hyman Minsky, sinh năm 1919 tạ thế năm 96. Năm 1998, một kinh tế gia kiêm quản trị tài chính của tập đoàn đầu tư và bảo hiểm PIMCO rất lớn tại miền Nam California này áp dụng lý luận của Minsky mà nghiên cứu vụ khủng hoảng tài chính tại Liên bang Nga để nói tới thời suy sụp của một hệ thống tín dụng ảo. Ông ta gọi đó là "thời Minsky", tôi xin tạm dịch là "điểm lật" cho dễ hiểu.

- Đó là khi lượng tín dụng bơm ra quá nhiều, người ta đi vay quá dễ để đầu tư thì sẽ tính chuyện đầu cơ vì ham lời rất lớn mà ít thấy rủi ro rất nặng. Tình trạng đầu cơ đó thổi lên bong bóng ảo và đến một lúc nào đó thì bóng sẽ bể, như tại Nhật Bản và nhiều xứ khác, kể cả Hoa Kỳ mới vừa bị vào năm 2007-2008. Người ta có nhiều chỉ dấu tiên báo cái điểm lật đó mà thị trường hồ hởi lại không nhìn ra và bị thiệt hại bất ngờ. Trung Quốc có những chỉ dấu đáng ngại cho thấy là họ đang tới điểm lật này.

Vũ Hoàng: Dù có thể là hơi chuyên môn, xn ông nói thêm về các chỉ dấu đó để thính giả của chúng ta cùng biết mà suy ngẫm về trường hợp của Việt Nam.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Kinh tế Trung Quốc lấy sức đẩy chủ yếu từ đầu tư cố định vào các dự án kém giá trị kinh tế, là tốn kém mà hoang phí. Họ tài trợ việc đầu tư đó bằng sức tiết kiệm rất cao của người dân và thổi lên trái bóng tín dụng, tức là vay mượn. Khi nhà nước cứ kích thích kinh tế bằng tín dụng dễ dãi thì cả khu vực nhà nước lẫn tư nhân đều phóng tay vay tiền mà bất kể rủi ro. Tính theo Tổng sản lượng GDP thì tổng số tín dụng công và tư của Trung Quốc từ 320% GDP vào năm 2008 đã lên tới 420% vào năm ngoái. Đó là về lượng, một con số quá cao và đáng ngại. Về phẩm thì núi nợ khổng lồ này có nhiều khối nợ xấu, không sinh lời, khó đòi và sẽ mất. Mà xấu đến cỡ nào thì không ai biết vì bên trong có nhiều khoản nợ chui, chẳng nằm trong sổ sách ngân hàng, kể cả các khoản nợ để đầu cơ và lường gạt.

- Giới kinh tế gia Hoa Kỳ có biết điều ấy và các tổ hợp đầu tư đứng đắn của họ đều có thư riêng cho thân chủ để nói tới rủi ro tại Trung Quốc. Vì là thư riêng trong giới làm ăn, lại có sự hạn chế về bản quyền nên truyền thông cho đại chúng ít nhắc tới. Bản thân tôi cũng không được phép trích dẫn những đánh giá riêng tư của các tập đoàn tài chính này, nhưng nếu có báo động dư luận thì cũng không thừa.

Vũ Hoàng: Câu hỏi cuối thưa ông. Khi nhớ lại vụ Thiên An Môn ngày xưa và rủi ro ngày nay thì ông kết luận như thế nào?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trong chu kỳ kinh doanh thì ai cũng có thể bị bất ngờ và lỗ vốn. Xứ nào cũng có thể bị nạn bể bóng và kinh tế sa sút trong thời gọi là "hậu Minsky". Mỹ, Nhật, Âu gì cũng thế. Nhưng Trung Quốc không có tự do thông tin và dân chủ chính trị, khi bị khủng hoảng tài chính thì bị nặng hơn với hậu quả dội ngược lên hệ thống lãnh đạo chính trị. Người ta có thể không biết hoặc chẳng nhớ tới vụ Thiên An Môn ngày xưa nhưng giới có tiền tiết kiệm thì thấy ngay sự phá sản trước mắt. Họ sẽ có phản ứng còn dữ dội hơn phản ứng của thị trường!

Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi lý thú này.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
Từ 20 năm qua (2004-2024), vấn đề hợp tác giữa người Việt Nam ở nước ngoài và đảng CSVN không ngừng được thảo luận, nhưng “đoàn kết dân tộc” vẫn là chuyện xa vời. Nguyên nhân còn ngăn cách cơ bản và quan trọng nhất vì đảng Cộng sản không muốn từ bỏ độc quyền cai trị, và tiếp tục áp đặt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh “làm nền tảng xây dựng đất nước”...
Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa. Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.
Việt Nam và Trung Quốc đã ký 14 Văn kiện hợp tác an ninh Chính trị, Kinh tế-Thương mại và Văn hóa-Báo chí trong chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của Tổng Bí thư Tô Lâm từ ngày 18 đến 20/08/2024. Trong số này, Văn kiện kết nối và thiết lập 3 Tuyến đường sắt giữa hai nước được gọi là “anh em” đã giúp Trung Quốc liên thông ra Biển Đông và bành trướng thế lực kinh tế...
Tại Campuchia, kênh đào Phù Nam Techo, trị giá 1,7 tỷ USD sẽ kết nối Phnom Penh và Vịnh Thái Lan, tượng trưng cho niềm tự hào dân tộc, an ninh và kết nối thương mại quốc tế. Người ta có thể cảm thấy như thế qua lời tuyên bố của Thủ tướng Campuchia Hun Manet và của ông Hun Sen, trong cương vị cố vấn, người đã chuyển giao quyền lực từ cha sang con vào năm ngoái...
Danh từ được tác giả dùng trong bài này không phải là danh từ theo tự loại mà là một thuật ngữ của Việt Cộng. Thuật ngữ Việt Công hay là danh từ Việt Cộng là những thuật ngữ, những từ được dùng trong nước dưới chính quyền Cộng sản Việt Nam. Ở trong nước người ta không dùng từ “Việt Cộng” mặc dầu Việt Cộng chỉ có ý nghĩa là Cộng Sản Việt Nam chớ không có nghĩa gì khác. Phải nói rõ ràng và dài dòng như vậy để tránh hiểu lầm và hiểu sai. Những danh từ đề cập trong bài viết này đa số là những danh từ kinh tế, vì chủ đề của bài viết là kinh tế, phân tích những ván đề kinh tế, nhận định về kinh tế chớ không phải chính trị, mặc dầu kinh tế không thể tách rời khỏi chính trị, xuất phát từ chính trị và tác động trở lại đời sống của mỗi con người chúng ta.
“Tôi hơi chậm hiểu lại rất chóng quên nên dù đã lê lết qua hơi nhiều trường ốc (trong cũng như ngoài nước) nhưng trình độ học vấn và kiến thức cũng chả̉ tới đâu, vẫn chỉ ở mức làng nhàng. Nói tóm lại là thuộc loại “xoàng”! Ơ! “Xoàng” thì đã sao nhỉ? Cũng không đến nỗi trăng/sao gì đâu, nếu tôi biết điều (biết chuyện – biết thân – biết phận) hơn chút xíu. Khổ nỗi, tôi lại cứ tưởng là mình cũng thuộc loại đầu óc trung bình (hoặc chỉ dưới mức đó không xa lắm) nên ghi danh học – tùm lum/tùm la – đủ thứ phân khoa: Triết Lý, Tâm Lý, Xã Hội, Nhân Chủng …
Một bài viết ngay sau khi được bầu vào chức Tổng Bí thư đảng CSVN cho thấy ông Tô Lâm đã hiện nguyên hình một người giáo điều, bảo thủ và hoài nghi trong “hợp tác quốc tế” với các nước. Trước hết ông cáo giác: “Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.” Lời tố cáo này không mới vì chỉ “nói cho có” và “không trưng ra được bằng chứng cụ thể nào”, giống hệt như những người tiền nhiệm...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.