Hôm nay,  

Trang Đất Việt: Thiết Nghĩ Về Tết Nguyên Đán Và Lễ Hội VN

21/02/201300:00:00(Xem: 7753)
Việt Nam là một quốc gia đã có trên bốn nghìn năm lịch sử, có một nền văn hóa mang bản sắc thuần nhất và riêng rẽ của dân tộc, tạo ra sự hoà quyện một truyền thống bền vững, thuỷ chung và sáng sủa, đã gói ghém và tạo thành tình nghĩa “đồng bào”. Bản sắc riêng rẽ này chỉ có ở Việt Nam; mà nhiều quốc gia khác trên thế giới chưa từng thấy.

Trong kho tàng văn hóa Việt, sinh hoạt các “lễ hội” rất đa dạng với nghệ thuật đặc trưng. Các sinh hoạt lễ hội là văn hóa dân gian, hầu như có mặt ở khắp mọi miền đất nước. Nhiều lễ hội ra đời cách đây đã mấy nghìn năm, đến nay vẫn được duy trì. Lễ hội ở Việt Nam được hướng tới đối tượng thiêng liêng để cung kính hay suy tôn, đấy là những vị Nhiên Thần đã được tin là linh thiêng, siêu nhiên, như: Thần Núi, Thổ Địa, Thần Táo... Và các Nhân Thần là những nhân vật có tài đức đã giúp dân, giúp nước... hoặc sau khi nhân vật ấy mất, đã hiển thánh giúp dân lành, như: Trần Hưng Đạo đã đánh đuổi quân Nguyên và hiển thánh giúp dân khi bị thiên tai bão lụt. Bố Cái Đại Vương giành lại độc lập cho tổ quốc và hiển thánh giúp Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán. Nguyễn Công Trứ người có công lập hai huyện Kim Sơn và Tiền Hải... Đó chính là hình ảnh hội tụ tinh thần và niềm tin của đồng bào, nói lên tâm tư nhớ về nguồn cội, nhằm hướng thiện và tạo dựng một cuộc sống yên vui, chứa chan tình tự dân tộc.

Tết Nguyên đán và Lễ hội VN là một truyền thống văn hoá tốt đẹp, cả người Việt ở trong nước và hải ngoại cần phải bảo tồn. Truyền thống văn hoá nếu bị lãng quên, thì những thế hệ sau này, dần dà mất đi bản sắc của dân tộc. Tết Nguyên đán, đối với người Việt là một ngày thiêng liêng, với niềm tin:

- Tết là ngày vui tươi: Ngày Tết, nét mặt luôn giữ vui vẻ, cư xử hòa nhã, kiềm chế mọi sự tức giận hay buồn phiền. Còn biến đổi từ cái vui của ngoại cảnh vào tâm hồn, gây cho mọi người cùng yêu thương, hòa thuận thật sự; vì có hòa thuận thật, thì cuộc hội tụ gia đình mới thân mật. Nếu không có hòa thuận thật, thì tất cả chỉ là cung cách xã giao nghi lễ bên ngoài.

- Tết là ngày của hy vọng: Tin rằng, mọi sự xui xẻo năm cũ nếu có sẽ được giũ sạch và năm mới sẽ đưa đến niềm hy vọng tốt dẹp. Nên ngày Tết thường đốt pháo, mong xua đuổi xui xẻo và người ta múa lân với hy vọng hên, để buôn may bán đắt.

- Tết là ngày đoàn tụ: Ngày Tết là ngày đoàn tụ của mọi gia đình, dù ai làm việc hay đi học ở xa nhà, đến ngày Tết họ mong mỏi và tìm mọi cách về nhà đoàn tụ với người trong gia đình. Ngoài ra, Tết cũng là ngày đoàn tụ với cả những người đã mất, người ta thường thắp hương mời hương linh Ông bà và Tổ tiên đã khuất về chung vui Tết với con với cháu. Ngày Tết, theo niềm tin, người ta còn có những nghi lễ dâng hương lên các vị Thần, mong ban phước cho nhân loại, như: những điều may mắn, hạnh phúc, sức khỏe, tiền tài...

- Tết là ngày tạ ơn: Ngày Tết là cơ hội để tạ ơn những người đã giúp đỡ chúng ta, như: Con cái tạ ơn cha mẹ; trò tạ ơn thầy; con cháu tạ ơn ông bà, tổ tiên; nhân viên tạ ơn cấp chỉ huy. Ngược lại, giới chủ nhân cũng cám ơn nhân viên, bằng những buổi tiệc khoản đãi hoặc quà thưởng tết.

- Tết là ngày mới: Người lớn và trẻ em, đều tắm gội sạch sẽ, mặc quần áo mới chỉnh tề. Nợ nần đều được thanh toán trước khi bước qua năm mới, đến Tết thì tất cả mọi người, ai cũng thêm một tuổi. Người lớn có tục mừng tuổi (lì xì) cho trẻ em.

- Ngày trước Tết có tục tặng quà: Nhân ngày tết hoặc ngày lễ, dân tộc VN đã có tục tặng quà từ ngàn xưa, ngày nay nhìn thấy nhân dân trên thế giới vẫn có phong tục tốt đẹp này, nên chúng ta nên trân trọng và gìn giữ. Nhà phân tâm học Marcel Rufo, đã phát biểu về việc tặng quà là cần thiết: “Món quà biểu cảm luôn được người nhận mừng rỡ, loại quà có thể giá rẻ, nhưng nói lên ý nghĩa: Tôi thích bạn, mến bạn, cảm tạ bạn. Ở trường hợp này, quà không còn là món hàng vật chất bình thường nữa, mà là một lời nhắn, một gửi gắm thâm tình, thắt chặt thêm quan hệ thân thiện giữa người cho và người nhận”.

Ngày nay, vì hoàn cảnh chính trị, người Việt, đã rời quê hương, đến dung thân nơi các nước tự do trên thế giới, như: Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Nhật... Nơi đây, họ đã tổ chức Tết và các Lễ hội Việt là gìn giữ bản sắc truyền thống của dân tộc. Họ phải hài hoà với dân bản địa hoặc các sắc dân khác. Họ phải xem xét, để vừa gạn lọc văn hoá người xâm nhập, vừa chắt chiu gìn giữ văn hoá truyền thống dân tộc. Đôi khi đụng chạm với các nền văn hóa khác, là việc khó tránh. Cuộc sống nơi đất mới luôn là một thách đố, cần tĩnh tâm, sáng trí, không buông xuôi do trắc trở, để bị mang tiếng là mất gốc; còn phải sáng suốt để không bị thoái hoá hay bị gọi là hủ lậu?!

Nguyễn Lộc Yên

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
Từ 20 năm qua (2004-2024), vấn đề hợp tác giữa người Việt Nam ở nước ngoài và đảng CSVN không ngừng được thảo luận, nhưng “đoàn kết dân tộc” vẫn là chuyện xa vời. Nguyên nhân còn ngăn cách cơ bản và quan trọng nhất vì đảng Cộng sản không muốn từ bỏ độc quyền cai trị, và tiếp tục áp đặt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh “làm nền tảng xây dựng đất nước”...
Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa. Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.
Việt Nam và Trung Quốc đã ký 14 Văn kiện hợp tác an ninh Chính trị, Kinh tế-Thương mại và Văn hóa-Báo chí trong chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của Tổng Bí thư Tô Lâm từ ngày 18 đến 20/08/2024. Trong số này, Văn kiện kết nối và thiết lập 3 Tuyến đường sắt giữa hai nước được gọi là “anh em” đã giúp Trung Quốc liên thông ra Biển Đông và bành trướng thế lực kinh tế...
Tại Campuchia, kênh đào Phù Nam Techo, trị giá 1,7 tỷ USD sẽ kết nối Phnom Penh và Vịnh Thái Lan, tượng trưng cho niềm tự hào dân tộc, an ninh và kết nối thương mại quốc tế. Người ta có thể cảm thấy như thế qua lời tuyên bố của Thủ tướng Campuchia Hun Manet và của ông Hun Sen, trong cương vị cố vấn, người đã chuyển giao quyền lực từ cha sang con vào năm ngoái...
Danh từ được tác giả dùng trong bài này không phải là danh từ theo tự loại mà là một thuật ngữ của Việt Cộng. Thuật ngữ Việt Công hay là danh từ Việt Cộng là những thuật ngữ, những từ được dùng trong nước dưới chính quyền Cộng sản Việt Nam. Ở trong nước người ta không dùng từ “Việt Cộng” mặc dầu Việt Cộng chỉ có ý nghĩa là Cộng Sản Việt Nam chớ không có nghĩa gì khác. Phải nói rõ ràng và dài dòng như vậy để tránh hiểu lầm và hiểu sai. Những danh từ đề cập trong bài viết này đa số là những danh từ kinh tế, vì chủ đề của bài viết là kinh tế, phân tích những ván đề kinh tế, nhận định về kinh tế chớ không phải chính trị, mặc dầu kinh tế không thể tách rời khỏi chính trị, xuất phát từ chính trị và tác động trở lại đời sống của mỗi con người chúng ta.
“Tôi hơi chậm hiểu lại rất chóng quên nên dù đã lê lết qua hơi nhiều trường ốc (trong cũng như ngoài nước) nhưng trình độ học vấn và kiến thức cũng chả̉ tới đâu, vẫn chỉ ở mức làng nhàng. Nói tóm lại là thuộc loại “xoàng”! Ơ! “Xoàng” thì đã sao nhỉ? Cũng không đến nỗi trăng/sao gì đâu, nếu tôi biết điều (biết chuyện – biết thân – biết phận) hơn chút xíu. Khổ nỗi, tôi lại cứ tưởng là mình cũng thuộc loại đầu óc trung bình (hoặc chỉ dưới mức đó không xa lắm) nên ghi danh học – tùm lum/tùm la – đủ thứ phân khoa: Triết Lý, Tâm Lý, Xã Hội, Nhân Chủng …
Một bài viết ngay sau khi được bầu vào chức Tổng Bí thư đảng CSVN cho thấy ông Tô Lâm đã hiện nguyên hình một người giáo điều, bảo thủ và hoài nghi trong “hợp tác quốc tế” với các nước. Trước hết ông cáo giác: “Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.” Lời tố cáo này không mới vì chỉ “nói cho có” và “không trưng ra được bằng chứng cụ thể nào”, giống hệt như những người tiền nhiệm...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.