Nguyễn Lộc Yên
(Lời tâm tình: “Sử Việt” chỉ khái quát các Nhân vật lịch sử, không đi sâu từng chi tiết của Nhân vật. Cuối mỗi bài viết, phần “Thiết nghĩ” nếu có là góp ý của tác giả, không ngoài mục đích làm sáng tỏ thêm về nội dung của đề tài đã biên soạn. Xin độc giả đừng xem đấy là chính sử, vì “Thiết nghĩ” chỉ là ý kiến riêng của tác giả. “Sử Việt” đăng vào ngày thứ Ba Tuesday mỗi tuần.)
HỒ XUÂN HƯƠNG
(1772 – 1822)
Nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương quê Hà Nội, thân phụ của bà là Hồ Phi Diễn, gốc Nghệ An. Có một số tài liệu ghi: Hồ Xuân Hương tên thật là Hồ Phi Mai (hoa mai bay trên hồ), hiệu là Xuân Hương. Và trong bài thơ tỏ tình của Tốn Phong với Hồ Xuân Hương, đã có nhắc đến chữ “Mai”.
Văn thơ của Bà lời lẽ dí dỏm, cười cợt, nhưng ý thơ sâu sắc, thường ẩn chứa nghĩa đen và nghĩa bóng, nên người đọc thường nghiền ngẫm, bàn bạc trong không khí xôn xao thích thú.
Vua Gia Long đã dựa vào thế lực ngoại bang, sau khi thống nhất đất nước. Cổng chào thành Thăng Long được tổ chức trọng thể. Một vị tướng quân đến gặp nữ sĩ Hồ Xuân Hương xin câu đối để trang trí trên cổng thành, Hồ Xuân Hương vui vẻ hạ bút:
“Thiện tử tinh kỳ dương bán điện
Tướng quân thanh thế áp tam thuỳ”
Theo nghĩa đen: Cờ xí của vua giăng khắp chốn che nửa mặt. Uy danh tướng quân bao trùm cả ba cõi. Mới xem qua câu đối, thì rất hay vì khen vua và tướng quân rất giỏi. Nhưng ngẫm kỹ và nhớ đến câu thơ khác của Hồ Xuân Hương: “Vành ra một góc da còn thiếu”. Thì câu đối trên có nghĩa: “cờ vua che nửa mảnh, tài của tướng quân chỉ áp vào ba góc”. Câu đối trên được dịch:
“Cho nửa mảnh, rực cờ thiên tử
Trấn ba góc, rõ tài tướng quân”.
Tướng quân tiu nghỉu, không lẽ nói toạc ra, thiên hạ sẽ cười cho.
Một hôm Hồ Xuân Hương đi chơi chùa Địch Lộng (Ninh Bình), nghe một nhóm văn nhân, đang đứng nơi gác chuông, vừa ngắm cảnh vừa bàn thơ phú rộn rã, lại có ý chê bai thơ của Hồ Xuân Hương. Hồ Xuân Hương đến chỗ gác chuông, bắt chuyện với họ: “Nghe các thầy bàn bạc văn thơ, chắc thơ phú hay lắm, xin các thầy thử làm bài thơ vịnh cái chuông, ai làm thơ hay, em xin hầu hạ”. Thấy cô gái đẹp, một chàng tỏ vẻ sành sỏi thơ nói: “Muốn làm thơ thì phải ra hạn vần chứ”. Vâng, em nghĩ: “ở đây có cái chuông, xin dùng vần uông đi nhé!”. Vần uông là vần khó, các thầy nghĩ chưa ra được một câu. Xuân Hương cười bảo: “thôi để em làm thử vài câu, rồi nhờ các thầy chỉ giáo cho”, rồi đọc to:
“Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông
Chúng bảo nhau rằng: ấy cái uông”
Nghe xong câu thơ, các thầy biết đã gặp Hồ Xuân Hương thật rồi, đứng nhìn nhau bẽn lẽn không biết nói sao!. Hồ Xuân Hương mỉm cười bỏ ra về, bài thơ còn bỏ dở...
Bà làm vợ lẽ ông Phủ Vĩnh Tường, khi ông Phủ mất, bà thương cảm tha thiết. Dù buồn bã, nhưng lời thơ còn ẩn chứa dí dỏm: “..........
Cán cân tạo hóa rơi đâu mất
Miệng túi càn khôn thắt lại rồi
Hăm bảy tháng trời là mấy chốc
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi!”
Tài hoa bạc mạng, khi bà bước thêm bước nữa, bà phải làm lẽ cho ông Cai Tổng Cóc cho đến khi qua đời. Bà còn để lại nhiều bài thơ Nôm tuyệt tác trong “Xuân Hương Thi Tập”. Và để lại nhiều bài thơ chữ Hán trong “Lưu Hương Ký”.
*- Thiết nghĩ: Trong xã hội phong kiến, giai cấp thống trị đã khéo léo dùng các từ ngữ cao đẹp để gìn giữ danh vị của họ. Những người tự đề cao: Quân tử, thiên tử, lương tướng... Hồ Xuân Hương đã nhìn thấu tim cật của họ, nên bà mới công khai dùng thơ cười cợt và mỉa mai. Vì thực ra, trong số đó có lắm kẻ giả dối là hiền nhân quân tử; nhưng họ là kẻ khát khao phàm tục hơn ai!. Bài thơ Vịnh cái quạt của Hồ Xuân Hương, đã nói toạc ra bản tính thường tình của dạng người này:
“Một lỗ sâu sâu mấy cũng vừa
Duyên em dính dán tự bao giờ
Vành ra ba góc da còn thiếu
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
Mát mặt anh hùng khi tắt gió
Che đầu quân tử lúc sa mưa
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?”
Bàn về thơ của Hồ Xuân Hương, không thể không nói đến những nét cười cợt, châm biếm độc đáo trong thi ca của bà.
- Thứ nhất, bà thông thạo cả chữ Hán và chữ Nôm, nên ý thơ dễ dàng trào lộng cả nghĩa đen và nghĩa bóng.
- Thứ hai, bà thích thú chữ Nôm, bà đã sử dụng thơ Nôm rất uyển chuyển và phong phú; nên văn thơ Nôm của bà rất tài tình, đã trang trải màu sắc tiếu lâm và châm biếm độc đáo, mong tạo dựng lại khung cảnh đạo đức cho xã hội.
- Thứ ba, thơ của bà mỉa mai sự thường tình của thế tục. Có lẽ từ đấy mà có lắm người chê bai rằng thơ của bà mang tính “khiêu dâm” và “nổi loạn”. Nhưng cũng có nhiều người khen ngợi, thơ của bà mang tính “đột phá” và “cách mạng”.
Có người nói rằng Hồ Xuân Hương mặt rỗ, nhan sắc tầm thường, vì vậy nên thường làm vợ lẽ. Điều ấy không đúng mà bà là một nhà thơ tài năng, hương sắc vẹn toàn, nhưng “hồng nhan đa truân”. Dương Tri Tạn vịnh cái điếu (điếu dùng hút thuốc lào) để tán tỉnh Xuân Hương là một người xinh đẹp:
“Eo lưng thắt đáy thật xinh xinh
Điếu ai hơn được điếu cô mình
Thoát châm, thoát bén duyên hương lửa
Càng núc, càng say nỗi tính tình”
Khi Xuân Hương 35 tuổi, Tốn Phong (tên thật: Phan Huy Huân, gốc gác Phan Huy Ích), đã theo tán tỉnh Xuân Hương:
“Như dáng cây mai xinh cốt cách,
Mười phần xuân sắc rạng trời xanh”.
Nhìn chung, Hồ Xuân Hương học rộng, duyên dáng, hồn nhiên. Dùng chữ ít mà nghĩa phong phú, từ mới lạ và gợi cảm, đối và vần điệu trong thơ đúng phép. Văn chương của Bà lỗi lạc, nhưng sinh phải vào thời xưa, nữ lưu không được ra thi cử, để đỗ đạt ra làm quan như nam giới. Nhưng với văn chương trác tuyệt của bà, tên tuổi của bà đã lưu danh kim cổ.
Cảm mộ: Bà Hồ Xuân Hương
Tài hoa bạc mệnh, kiếp nhân sinh
Lận đận tình duyên, dang dở tình
Nghĩ phận hẩm hiu, buồn bã phận
Thương mình quạnh quẽ, xót xa mình
Lời đen, nghĩa bóng, lâm ly khiếp
Ý trắng tình thâm, dí dỏm kinh
Bà chúa thơ Nôm, phong phú chữ
Văn thơ cười cợt ẩn muôn hình.
Nguyễn Lộc Yên
(Lời tâm tình: “Sử Việt” chỉ khái quát các Nhân vật lịch sử, không đi sâu từng chi tiết của Nhân vật. Cuối mỗi bài viết, phần “Thiết nghĩ” nếu có là góp ý của tác giả, không ngoài mục đích làm sáng tỏ thêm về nội dung của đề tài đã biên soạn. Xin độc giả đừng xem đấy là chính sử, vì “Thiết nghĩ” chỉ là ý kiến riêng của tác giả. “Sử Việt” đăng vào ngày thứ Ba Tuesday mỗi tuần.)
HỒ XUÂN HƯƠNG
(1772 – 1822)
Nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương quê Hà Nội, thân phụ của bà là Hồ Phi Diễn, gốc Nghệ An. Có một số tài liệu ghi: Hồ Xuân Hương tên thật là Hồ Phi Mai (hoa mai bay trên hồ), hiệu là Xuân Hương. Và trong bài thơ tỏ tình của Tốn Phong với Hồ Xuân Hương, đã có nhắc đến chữ “Mai”.
Văn thơ của Bà lời lẽ dí dỏm, cười cợt, nhưng ý thơ sâu sắc, thường ẩn chứa nghĩa đen và nghĩa bóng, nên người đọc thường nghiền ngẫm, bàn bạc trong không khí xôn xao thích thú.
Vua Gia Long đã dựa vào thế lực ngoại bang, sau khi thống nhất đất nước. Cổng chào thành Thăng Long được tổ chức trọng thể. Một vị tướng quân đến gặp nữ sĩ Hồ Xuân Hương xin câu đối để trang trí trên cổng thành, Hồ Xuân Hương vui vẻ hạ bút:
“Thiện tử tinh kỳ dương bán điện
Tướng quân thanh thế áp tam thuỳ”
Theo nghĩa đen: Cờ xí của vua giăng khắp chốn che nửa mặt. Uy danh tướng quân bao trùm cả ba cõi. Mới xem qua câu đối, thì rất hay vì khen vua và tướng quân rất giỏi. Nhưng ngẫm kỹ và nhớ đến câu thơ khác của Hồ Xuân Hương: “Vành ra một góc da còn thiếu”. Thì câu đối trên có nghĩa: “cờ vua che nửa mảnh, tài của tướng quân chỉ áp vào ba góc”. Câu đối trên được dịch:
“Cho nửa mảnh, rực cờ thiên tử
Trấn ba góc, rõ tài tướng quân”.
Tướng quân tiu nghỉu, không lẽ nói toạc ra, thiên hạ sẽ cười cho.
Một hôm Hồ Xuân Hương đi chơi chùa Địch Lộng (Ninh Bình), nghe một nhóm văn nhân, đang đứng nơi gác chuông, vừa ngắm cảnh vừa bàn thơ phú rộn rã, lại có ý chê bai thơ của Hồ Xuân Hương. Hồ Xuân Hương đến chỗ gác chuông, bắt chuyện với họ: “Nghe các thầy bàn bạc văn thơ, chắc thơ phú hay lắm, xin các thầy thử làm bài thơ vịnh cái chuông, ai làm thơ hay, em xin hầu hạ”. Thấy cô gái đẹp, một chàng tỏ vẻ sành sỏi thơ nói: “Muốn làm thơ thì phải ra hạn vần chứ”. Vâng, em nghĩ: “ở đây có cái chuông, xin dùng vần uông đi nhé!”. Vần uông là vần khó, các thầy nghĩ chưa ra được một câu. Xuân Hương cười bảo: “thôi để em làm thử vài câu, rồi nhờ các thầy chỉ giáo cho”, rồi đọc to:
“Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông
Chúng bảo nhau rằng: ấy cái uông”
Nghe xong câu thơ, các thầy biết đã gặp Hồ Xuân Hương thật rồi, đứng nhìn nhau bẽn lẽn không biết nói sao!. Hồ Xuân Hương mỉm cười bỏ ra về, bài thơ còn bỏ dở...
Bà làm vợ lẽ ông Phủ Vĩnh Tường, khi ông Phủ mất, bà thương cảm tha thiết. Dù buồn bã, nhưng lời thơ còn ẩn chứa dí dỏm: “..........
Cán cân tạo hóa rơi đâu mất
Miệng túi càn khôn thắt lại rồi
Hăm bảy tháng trời là mấy chốc
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi!”
Tài hoa bạc mạng, khi bà bước thêm bước nữa, bà phải làm lẽ cho ông Cai Tổng Cóc cho đến khi qua đời. Bà còn để lại nhiều bài thơ Nôm tuyệt tác trong “Xuân Hương Thi Tập”. Và để lại nhiều bài thơ chữ Hán trong “Lưu Hương Ký”.
*- Thiết nghĩ: Trong xã hội phong kiến, giai cấp thống trị đã khéo léo dùng các từ ngữ cao đẹp để gìn giữ danh vị của họ. Những người tự đề cao: Quân tử, thiên tử, lương tướng... Hồ Xuân Hương đã nhìn thấu tim cật của họ, nên bà mới công khai dùng thơ cười cợt và mỉa mai. Vì thực ra, trong số đó có lắm kẻ giả dối là hiền nhân quân tử; nhưng họ là kẻ khát khao phàm tục hơn ai!. Bài thơ Vịnh cái quạt của Hồ Xuân Hương, đã nói toạc ra bản tính thường tình của dạng người này:
“Một lỗ sâu sâu mấy cũng vừa
Duyên em dính dán tự bao giờ
Vành ra ba góc da còn thiếu
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
Mát mặt anh hùng khi tắt gió
Che đầu quân tử lúc sa mưa
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?”
Bàn về thơ của Hồ Xuân Hương, không thể không nói đến những nét cười cợt, châm biếm độc đáo trong thi ca của bà.
- Thứ nhất, bà thông thạo cả chữ Hán và chữ Nôm, nên ý thơ dễ dàng trào lộng cả nghĩa đen và nghĩa bóng.
- Thứ hai, bà thích thú chữ Nôm, bà đã sử dụng thơ Nôm rất uyển chuyển và phong phú; nên văn thơ Nôm của bà rất tài tình, đã trang trải màu sắc tiếu lâm và châm biếm độc đáo, mong tạo dựng lại khung cảnh đạo đức cho xã hội.
- Thứ ba, thơ của bà mỉa mai sự thường tình của thế tục. Có lẽ từ đấy mà có lắm người chê bai rằng thơ của bà mang tính “khiêu dâm” và “nổi loạn”. Nhưng cũng có nhiều người khen ngợi, thơ của bà mang tính “đột phá” và “cách mạng”.
Có người nói rằng Hồ Xuân Hương mặt rỗ, nhan sắc tầm thường, vì vậy nên thường làm vợ lẽ. Điều ấy không đúng mà bà là một nhà thơ tài năng, hương sắc vẹn toàn, nhưng “hồng nhan đa truân”. Dương Tri Tạn vịnh cái điếu (điếu dùng hút thuốc lào) để tán tỉnh Xuân Hương là một người xinh đẹp:
“Eo lưng thắt đáy thật xinh xinh
Điếu ai hơn được điếu cô mình
Thoát châm, thoát bén duyên hương lửa
Càng núc, càng say nỗi tính tình”
Khi Xuân Hương 35 tuổi, Tốn Phong (tên thật: Phan Huy Huân, gốc gác Phan Huy Ích), đã theo tán tỉnh Xuân Hương:
“Như dáng cây mai xinh cốt cách,
Mười phần xuân sắc rạng trời xanh”.
Nhìn chung, Hồ Xuân Hương học rộng, duyên dáng, hồn nhiên. Dùng chữ ít mà nghĩa phong phú, từ mới lạ và gợi cảm, đối và vần điệu trong thơ đúng phép. Văn chương của Bà lỗi lạc, nhưng sinh phải vào thời xưa, nữ lưu không được ra thi cử, để đỗ đạt ra làm quan như nam giới. Nhưng với văn chương trác tuyệt của bà, tên tuổi của bà đã lưu danh kim cổ.
Cảm mộ: Bà Hồ Xuân Hương
Tài hoa bạc mệnh, kiếp nhân sinh
Lận đận tình duyên, dang dở tình
Nghĩ phận hẩm hiu, buồn bã phận
Thương mình quạnh quẽ, xót xa mình
Lời đen, nghĩa bóng, lâm ly khiếp
Ý trắng tình thâm, dí dỏm kinh
Bà chúa thơ Nôm, phong phú chữ
Văn thơ cười cợt ẩn muôn hình.
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn