(Lời tâm tình: Nay sắp đến Tết Nguyên Đán và tháng Giêng là tháng tết, nên “Trang Đất Việt” tạm ngưng các tỉnh thành VN, để đăng về: Tết Nguyên Đán, Văn thơ, Cổ tích và truyền kỳ...)
I- Tết Nguyên Đán
: Còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Việt Nam hay gọi đơn giản là Tết. Chữ Tết là do chữ tiết (thời tiết) đọc trệch ra mà thành tết. Nguyên là nguyên thuỷ, bắt đầu. Đán là buổi sớm mai. Tết Nguyên Đán là tết mở đầu cho một năm. Tết năm mới của Việt Nam bắt đầu vào mùa xuân, trong không khí mát mẻ, cây cối, hoa cỏ tốt tươi, do đó năm mới sẽ hy vọng: Khoẻ khoắn, an lành và may mắn.
Tết Nguyên Đán được tổ chức vào ngày mồng 1 tháng Giêng hằng năm theo Âm lịch, tại nước Việt Nam và ở một số quốc gia có cộng đồng người Việt sinh sống. Tết Nguyên Đán của Việt Nam muộn hơn Tết Dương lịch (Tết Tây). Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của Âm lịch, nên ngày Tết Nguyên đán (đầu năm của Âm lịch), không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 Dương lịch, thường thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương lịch.
Tết Nguyên Đán đối với người Việt rất thiêng liêng, nên mọi người, mọi gia đình, đều chuẩn bị tết từ đầu tháng chạp (trước ngày tết một tháng), như: Tiền bạc, sửa sang nhà cửa, mua sắm rim mứt, quần áo mới để đón tết.
1- Tiễn đưa ông Táo: Ngày xưa ở Việt Nam (đến nay còn nhiều gia đình giữ tập tục này), người ta tin rằng Táo Quân (Táo là bếp, Quân là vua: Thần Bếp), cai quản việc bếp núc, vào cuối năm vào ngày 23 tháng chạp (ÂL). Táo về chầu Ngọc Hoàng Thượng đế, báo cáo rành rẽ mọi việc của gia đình nơi thần Táo ở (nếu nhà bếp cấp quốc gia, thì Táo sẽ bẩm báo việc quốc gia). Chuyện kể về thần Táo (lúc còn nhỏ, tôi được nghe mẫu thân kể chuyện Thần táo, nay xin được thuật lại), thuở xa xưa có một nông dân cưới được một người vợ đẹp lắm, mỗi lần đi làm ruộng, ông mang bức hình của người vợ theo, để nơi bờ ruộng vừa làm vừa ngắm. Một hôm có một con quạ sà xuống gắp bức hình bay là đà, quạ bị người lính đi săn, bắn trúng chân, nên quạ thả bức hình để thoát thân.
Người hướng dẫn đoàn lính đi săn là một vị Đại vương. Đại vương ngắm nghía người trong bức hình duyên dáng mặn mà, nên truyền lính đi tìm bà đem về cung. Ông nài nỉ và bắt buộc bà làm vợ. Người nông dân xa vợ, rầu rĩ, nhớ nhung, không làm lụng được, nên bị đói rách, đi lang thang. Run rủi vào trúng nhà của người vợ cũ. Bà cho ông tiền bạc và ăn uống. Liền lúc đó, nghe tiếng lính đi săn đã về xôn xao ngoài ngõ. Hốt hoảng quá! Bà bảo người chồng cũ chui vào lò để trốn. Lính đem con nai vừa bắn được bỏ vào lò để thui. Bà quá hối hận, vì vô tình đã hại chết người chồng cũ. Nên bà nhảy vào lò lửa cùng chết chung, cho trọn tình nghĩa.
Đại vương sửng sốt, quá lưu luyến vợ nên cũng nhảy vào lò cùng chết chung. Ngọc Hoàng nghe bẩm báo sự việc, ngẫm nghĩ cả 3 người đã chết thật chan chứa tình nghĩa, nên phong cả 3 người là Thần Táo, do đó Táo Quân có hai ông một bà. Từ đấy người ta thờ Táo Quân với câu đối: “Hữu đức năng tư hoả. Vô tư khả đạt thiên”. Nghĩa là: Có tài săm soi lửa. Khả năng bẩm báo trời.
2- Gởi tết: Sắp đến ngày tết, con cháu các ngành thứ ở riêng, mang hoa qủa, bánh mức về nhà trưởng (nhà thờ ông bà) để nhà trưởng cúng tổ tiên.
3- Biếu tết: Biếu tết là trò tặng quà đến thầy, hay người ta tặng quà với nhau, giữa những người trong họ hàng, bạn bè, người làm cùng sở, để gây thêm tình thân mật.
4- Tảo mộ: Tảo mộ là sang sửa mồ mả tổ tiên, mồ mả người đã mất, vì tin rằng hồn người chết được hưởng tết vui vẻ, có nơi chờ đến tháng ba, tết Thanh minh mới tảo mộ.
5- Lễ Giao thừa: Theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, giao thừa: “Cũ giao lại, mới đón lấy”. Trong lễ giao thừa, nơi các đình miếu cúng tế do làng trưởng hay vị tiên chỉ hoặc thủ từ làm chủ lễ. Tại tư gia do người gia trưởng sắp xếp việc cúng bái, vậy cúng ai? Theo Phan Kế Bính trong “Phong tục Việt Nam” viết: “Tục ta tin rằng mỗi năm có một ông Hành khiển coi việc nhân gian, hết năm thì thần nọ bàn giao cho thần kia, cho nên cúng tế để tiễn ông cũ và đón ông mới”. Như vậy có 12 vị Hành khiển, theo địa chi (Tý, Sửu... Hợi), mỗi năm một vị Hành khiển vâng mệnh Ngọc hoàng đến trần gian. Lễ giao thừa còn cúng bái cảm tạ Ông bà Tổ tiên, Thổ công và âm hồn đã phù hộ cho gia đình hay làng xóm suốt năm qua. Giờ giao tiếp giữa hai năm, cũ và mới gọi là “Lễ Trừ tịch”.
6- Lễ Trừ tịch là giờ phút cuối cùng của năm cũ bắt đầu sang năm mới. Cuối giờ Hợi (12 giờ đêm) ngày 30 tháng Chạp (tháng thiếu ngày 29) bước qua giờ Tý mùng một tháng Giêng năm sau. Lễ trừ tịch có ý là bỏ tất cả cái đã qua, những điều cũ, xấu của năm rồi, đón cái mới tốt đẹp năm tới, cũng có nghĩa là lễ trừ ma quỷ. Lễ trừ tịch cử hành vào lúc giao thừa nên cũng gọi là Lễ Giao thừa. Sau đó, người ta thường chọn hướng để xuất hành, mong gặp được điều may mắn suốt năm.
7- Cây nêu: Người Việt khi xưa tin tưởng rằng ngày tết ma quỉ thường quấy nhiễu, nên trước sân dựng cây nêu là cây tre có vòng tròn với lá phướn và rắc vôi trên mặt đất, bởi tin rằng ngày xưa Phật đã cấm ma quỉ đến nơi có các vật này. Cũng có thuyết cho rằng: Chử Đồng Tử tu tiên, được Tiên ông cho một cây trượng và một chiếc nón là bửu bối linh nghiệm, hình ảnh cây nêu (cây trượng) và vòng tròn (nón), có phải tổ tiên chúng ta muốn dùng hình ảnh bửu bối của Chử Đạo Tổ, để trừ tà và lấy hên hay không?!
8- Hái lộc: Khi đi xuất hành hay đi dự lễ giao thừa ở chùa, nhà thờ, đền, đình, nhân dịp bẻ một nhánh cây nhỏ, có lá sởn sơ; như cây đa, cây đề, cây si, gọi là cành lộc, đem về cắm ở bàn thờ, tin tưởng sẽ đem lại sự may mắn cho gia đình trong năm mới.
9- Vui tết:
Ngày tết Nguyên Đán thường là 7 ngày, từ ngày mùng một đến mùng bảy hạ nêu. Trong thời gian tết, nhiều nơi tổ chức hội hè, đình đám nhộn nhịp như: Bài chòi, bầu cua, lô tô. Nơi chùa, nhà thờ, ngoài đường người tấp nập, quần áo chỉnh tề. Gặp nhau chúc tết chân tình, lời lẽ nhỏ nhẹ lịch sự.
10- Mừng tuổi: Ngày xưa con cháu mừng tuổi là lạy Tổ tiên đã mất; lạy Ông bà còn sống, và được Ông bà cho tiền. Ngày nay người lớn bỏ tiền vào phong bì màu đỏ, cho con cháu hay trẻ em quen biết, để các em hoan hỷ đầu năm, tiền này gọi là tiền lì xì, hay tiền mở hàng đầu năm.
II- Tết miền Sơn cước (Tết đồng bào người Thượng):
1- Tết của người HMông: Người HMông sống ở vùng cao nguyên miền Bắc. Họ ăn tết vào thời gian khoảng sau tết Dương lịch vài hôm. Nhà cửa trang hoàng màu sắc rực rỡ, màu đỏ được người HMông ưa chọn hơn hết. Họ chuẩn bị một con heo mập mạp để ăn tết, ngoài ra còn có bánh bằng bột nếp. Vào đêm giao thừa, gia đình thường cử một người con trai đi “mở nước”, tức là đến sông, suối lấy nước về nhà để cúng.
2- Tết của người Dao: Người Dao sinh sống ở vùng núi miền Bắc, họ có Tết Nhảy (Nhiang chăm đao) rất độc đáo, được tổ chức trước tết Nguyên đán của người Kinh vài hôm. Mọi gia đình đều nghỉ làm việc để ăn tết, nhà cửa được trang hoàng sáng sủa, dán nhiều câu đối bằng chữ Hán vào cột hay trên các vách tường mừng xuân. Ngày tết, họ rất vui vẻ đi thăm viếng và chúc tụng lẫn nhau. Họ đón tết nhảy, nhìn các thanh niên biểu diễn võ nghệ rộn ràng, thanh niên biểu diễn các điệu nhảy, điệu múa, trong đấy có múa kiếm, múa kiếm uyển chuyển trong tiếng trống, tiếng chiêng vang rền giục giã.
3- Tết của người Cơ Tu: Người Cơ Tu sinh sống ở miền núi thuộc tỉnh Quảng Nam. Họ tổ chức ăn tết “Prơ giê răm”, nhà nhà trang hoàng đẹp đẽ; cung tên, giáo mác, chiêng, trống... được lau chùi cẩn thận. Tại nhà làng (nhà rông), sơn màu sắc rực rỡ, giữa sân trồng trụ đâm trâu. Dân trong buôn làng tề tựu nơi đây đông đảo nhảy múa, hát dân ca trong không khí tưng bừng. Trai gái trao đổi tâm tình và chơi xuân cả tháng.
4- Tết của người Xơ Đăng: Người Xơ Đăng sinh sống miền rừng núi Kon Tum, mỗi năm họ có 2 tết: Tết Giọt nước và tết Lửa. Tết Giọt nước được tổ chức linh đình hơn, vào khoảng tháng 3 Dương lịch. Khi mùa màng gặt hái xong, họ sửa sang các máng nước và chuẩn bị làm lễ “cúng máng”, cầu xin Thần nước ban cho năm mới bản làng yên ổn, dân làng sức khoẻ dồi dào, mùa màng tươi tốt. Họ đem choé, nồi đồng đến các máng nước lấy nước về nhà. Lễ “cúng máng nước”, được tổ chức rất lớn tại nhà rông, mời thầy cúng, cúng kiếng kỹ lưỡng. Sau đấy, họ ăn uống, ca hát, nhảy múa mấy ngày liền. Tết cũng là dịp trai gái trao đổi tâm tình.
III- Tết làng quê, tết thị thành.
1- Tết làng quê người Việt: Tết là mốc thời gian thay cũ đổi mới, nên ai ai cũng nao nức lẫn lộn lo lắng, để chuẩn bị tết. Những người đi làm lụng xa quê luôn nôn nao “về quê ăn tết”. Về quê ăn tết là dịp được gặp lại gia đình, họ hàng, làng xóm đã xa vắng mấy tháng hay mấy năm. Mọi người sửa sang nhà cửa, chuẩn bị rim mứt, không thể thiếu bánh chưng hoặc bánh tét vào ngày tết, còn lo muối một vại dưa hành cho đúng điệu:
"Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh".
2- Chợ tết: Phong tục đón xuân đã trở thành truyền thống, nên chợ tết vào cuối tháng chạp hàng hoá rất dồi dào, người mua, kẻ bán luôn tấp nập, nói cười rộn rã, nên có câu “vui như chợ tết”. Khu bán hoa vào ngày cận tết, luôn đủ các loại hoa, màu sắc rực rỡ cả một góc trời.
3- Bàn thờ gia tiên: Kể từ rằm tháng chạp, bàn thờ bắt đầu sửa sang, lau chùi tỉ mỉ, đồ đồng nơi bàn thờ đem đánh bóng sáng loáng như mới. Chính giữa hương án là một bình hương để cắm hương. Hai cây đèn đối xứng nhau ở hai bên bình hương. Nhà nào có người làm quan văn thì có cờ, biển, chiêng, trống và có giá để bộ bát bửu (8 thứ quí): Túi thơ, quạt, bầu rượu...Nhà nào có người quan võ thì bày bộ “chấp kích” gồm 8 thứ: Phủ việt, dùi đồng, truỳ, đại côn...những thứ này bằng đồng hoặc bằng gỗ được sơn son thếp vàng.
4- Tết Hà Nội: Hà nội là đất ngàn năm văn vật, nên truyền thống ngày tết có nhiều phong tục đặc biệt. Kể từ đầu tháng chạp, đồng bào đã chuẩn bị tiền bạc để mua sắm tết, nhà cửa sửa sang, từng gia đình không quên vại dưa hành, hũ trứng muối và vài bì lạp xưởng. Ngày tết dù giàu hay nghèo đều có xôi gấc, vì gấc màu đỏ tươi nhìn sáng sủa, còn có hy vọng đem lại may mắn. Đĩa hạt dưa rang màu đỏ, ảnh hưởng từ miền Nam cũng không thể thiếu, nên sau năm 1955, hai miền Nam Bắc chia cắt, miền Bắc phải dùng hạt bí để thay thế.
Những loại cây, hoa được người Hà Nội ưa thích vào dịp tết là đào, quất, nếu gia đình khá giả thì thêm giò thuỷ tiên.
Chiều 30 tháng chạp, làm cỗ cúng tất niên, tiễn năm cũ và khấn mời Cha mẹ, Ông bà, Tổ tiên đã khuất, về cùng ăn tết với con cháu. Ngày tết bàn thờ hương trầm khói nghi ngút, mọi người trong gia đình từ già đến trẻ đều ăn mặc chỉnh tề; con cháu tuần tự đến chúc mừng cha mẹ ông bà; kế đến người lớn lì xì (mừng tuổi) bằng phong bì đỏ, bên trong là tiền mới, để con cháu lấy hên. và người lớn cũng dặn dò con cháu ngoan, chăm chỉ học hành và siêng sắn làm việc.
Người Hà Nội thường dùng các loại trà có tiếng là thơm ngon: Chè ướp sen, chè Ninh Thái, chè Thiết Quan Âm... Món ăn Hà Nội thường được nấu nướng đúng cách, mùi vị thơm tho, cỗ bàn phải đủ lệ đủ món. Mâm cỗ tết thường có 4 bát, 6 đĩa. Khá giả hơn thì 8 bát, 8 đĩa. Bát thì có: Bát miến nấu lòng gà, bát bóng su hào nấu với thịt heo nạt... Đĩa thì có: Đĩa gà luộc, đĩa cá kho riềng, thịt bò kho khô...
(Còn tiếp)
Nguyễn Lộc Yên
I- Tết Nguyên Đán
: Còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Việt Nam hay gọi đơn giản là Tết. Chữ Tết là do chữ tiết (thời tiết) đọc trệch ra mà thành tết. Nguyên là nguyên thuỷ, bắt đầu. Đán là buổi sớm mai. Tết Nguyên Đán là tết mở đầu cho một năm. Tết năm mới của Việt Nam bắt đầu vào mùa xuân, trong không khí mát mẻ, cây cối, hoa cỏ tốt tươi, do đó năm mới sẽ hy vọng: Khoẻ khoắn, an lành và may mắn.
Tết Nguyên Đán được tổ chức vào ngày mồng 1 tháng Giêng hằng năm theo Âm lịch, tại nước Việt Nam và ở một số quốc gia có cộng đồng người Việt sinh sống. Tết Nguyên Đán của Việt Nam muộn hơn Tết Dương lịch (Tết Tây). Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của Âm lịch, nên ngày Tết Nguyên đán (đầu năm của Âm lịch), không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 Dương lịch, thường thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương lịch.
Tết Nguyên Đán đối với người Việt rất thiêng liêng, nên mọi người, mọi gia đình, đều chuẩn bị tết từ đầu tháng chạp (trước ngày tết một tháng), như: Tiền bạc, sửa sang nhà cửa, mua sắm rim mứt, quần áo mới để đón tết.
1- Tiễn đưa ông Táo: Ngày xưa ở Việt Nam (đến nay còn nhiều gia đình giữ tập tục này), người ta tin rằng Táo Quân (Táo là bếp, Quân là vua: Thần Bếp), cai quản việc bếp núc, vào cuối năm vào ngày 23 tháng chạp (ÂL). Táo về chầu Ngọc Hoàng Thượng đế, báo cáo rành rẽ mọi việc của gia đình nơi thần Táo ở (nếu nhà bếp cấp quốc gia, thì Táo sẽ bẩm báo việc quốc gia). Chuyện kể về thần Táo (lúc còn nhỏ, tôi được nghe mẫu thân kể chuyện Thần táo, nay xin được thuật lại), thuở xa xưa có một nông dân cưới được một người vợ đẹp lắm, mỗi lần đi làm ruộng, ông mang bức hình của người vợ theo, để nơi bờ ruộng vừa làm vừa ngắm. Một hôm có một con quạ sà xuống gắp bức hình bay là đà, quạ bị người lính đi săn, bắn trúng chân, nên quạ thả bức hình để thoát thân.
Người hướng dẫn đoàn lính đi săn là một vị Đại vương. Đại vương ngắm nghía người trong bức hình duyên dáng mặn mà, nên truyền lính đi tìm bà đem về cung. Ông nài nỉ và bắt buộc bà làm vợ. Người nông dân xa vợ, rầu rĩ, nhớ nhung, không làm lụng được, nên bị đói rách, đi lang thang. Run rủi vào trúng nhà của người vợ cũ. Bà cho ông tiền bạc và ăn uống. Liền lúc đó, nghe tiếng lính đi săn đã về xôn xao ngoài ngõ. Hốt hoảng quá! Bà bảo người chồng cũ chui vào lò để trốn. Lính đem con nai vừa bắn được bỏ vào lò để thui. Bà quá hối hận, vì vô tình đã hại chết người chồng cũ. Nên bà nhảy vào lò lửa cùng chết chung, cho trọn tình nghĩa.
Đại vương sửng sốt, quá lưu luyến vợ nên cũng nhảy vào lò cùng chết chung. Ngọc Hoàng nghe bẩm báo sự việc, ngẫm nghĩ cả 3 người đã chết thật chan chứa tình nghĩa, nên phong cả 3 người là Thần Táo, do đó Táo Quân có hai ông một bà. Từ đấy người ta thờ Táo Quân với câu đối: “Hữu đức năng tư hoả. Vô tư khả đạt thiên”. Nghĩa là: Có tài săm soi lửa. Khả năng bẩm báo trời.
2- Gởi tết: Sắp đến ngày tết, con cháu các ngành thứ ở riêng, mang hoa qủa, bánh mức về nhà trưởng (nhà thờ ông bà) để nhà trưởng cúng tổ tiên.
3- Biếu tết: Biếu tết là trò tặng quà đến thầy, hay người ta tặng quà với nhau, giữa những người trong họ hàng, bạn bè, người làm cùng sở, để gây thêm tình thân mật.
4- Tảo mộ: Tảo mộ là sang sửa mồ mả tổ tiên, mồ mả người đã mất, vì tin rằng hồn người chết được hưởng tết vui vẻ, có nơi chờ đến tháng ba, tết Thanh minh mới tảo mộ.
5- Lễ Giao thừa: Theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, giao thừa: “Cũ giao lại, mới đón lấy”. Trong lễ giao thừa, nơi các đình miếu cúng tế do làng trưởng hay vị tiên chỉ hoặc thủ từ làm chủ lễ. Tại tư gia do người gia trưởng sắp xếp việc cúng bái, vậy cúng ai? Theo Phan Kế Bính trong “Phong tục Việt Nam” viết: “Tục ta tin rằng mỗi năm có một ông Hành khiển coi việc nhân gian, hết năm thì thần nọ bàn giao cho thần kia, cho nên cúng tế để tiễn ông cũ và đón ông mới”. Như vậy có 12 vị Hành khiển, theo địa chi (Tý, Sửu... Hợi), mỗi năm một vị Hành khiển vâng mệnh Ngọc hoàng đến trần gian. Lễ giao thừa còn cúng bái cảm tạ Ông bà Tổ tiên, Thổ công và âm hồn đã phù hộ cho gia đình hay làng xóm suốt năm qua. Giờ giao tiếp giữa hai năm, cũ và mới gọi là “Lễ Trừ tịch”.
6- Lễ Trừ tịch là giờ phút cuối cùng của năm cũ bắt đầu sang năm mới. Cuối giờ Hợi (12 giờ đêm) ngày 30 tháng Chạp (tháng thiếu ngày 29) bước qua giờ Tý mùng một tháng Giêng năm sau. Lễ trừ tịch có ý là bỏ tất cả cái đã qua, những điều cũ, xấu của năm rồi, đón cái mới tốt đẹp năm tới, cũng có nghĩa là lễ trừ ma quỷ. Lễ trừ tịch cử hành vào lúc giao thừa nên cũng gọi là Lễ Giao thừa. Sau đó, người ta thường chọn hướng để xuất hành, mong gặp được điều may mắn suốt năm.
7- Cây nêu: Người Việt khi xưa tin tưởng rằng ngày tết ma quỉ thường quấy nhiễu, nên trước sân dựng cây nêu là cây tre có vòng tròn với lá phướn và rắc vôi trên mặt đất, bởi tin rằng ngày xưa Phật đã cấm ma quỉ đến nơi có các vật này. Cũng có thuyết cho rằng: Chử Đồng Tử tu tiên, được Tiên ông cho một cây trượng và một chiếc nón là bửu bối linh nghiệm, hình ảnh cây nêu (cây trượng) và vòng tròn (nón), có phải tổ tiên chúng ta muốn dùng hình ảnh bửu bối của Chử Đạo Tổ, để trừ tà và lấy hên hay không?!
8- Hái lộc: Khi đi xuất hành hay đi dự lễ giao thừa ở chùa, nhà thờ, đền, đình, nhân dịp bẻ một nhánh cây nhỏ, có lá sởn sơ; như cây đa, cây đề, cây si, gọi là cành lộc, đem về cắm ở bàn thờ, tin tưởng sẽ đem lại sự may mắn cho gia đình trong năm mới.
9- Vui tết:
Ngày tết Nguyên Đán thường là 7 ngày, từ ngày mùng một đến mùng bảy hạ nêu. Trong thời gian tết, nhiều nơi tổ chức hội hè, đình đám nhộn nhịp như: Bài chòi, bầu cua, lô tô. Nơi chùa, nhà thờ, ngoài đường người tấp nập, quần áo chỉnh tề. Gặp nhau chúc tết chân tình, lời lẽ nhỏ nhẹ lịch sự.
10- Mừng tuổi: Ngày xưa con cháu mừng tuổi là lạy Tổ tiên đã mất; lạy Ông bà còn sống, và được Ông bà cho tiền. Ngày nay người lớn bỏ tiền vào phong bì màu đỏ, cho con cháu hay trẻ em quen biết, để các em hoan hỷ đầu năm, tiền này gọi là tiền lì xì, hay tiền mở hàng đầu năm.
II- Tết miền Sơn cước (Tết đồng bào người Thượng):
1- Tết của người HMông: Người HMông sống ở vùng cao nguyên miền Bắc. Họ ăn tết vào thời gian khoảng sau tết Dương lịch vài hôm. Nhà cửa trang hoàng màu sắc rực rỡ, màu đỏ được người HMông ưa chọn hơn hết. Họ chuẩn bị một con heo mập mạp để ăn tết, ngoài ra còn có bánh bằng bột nếp. Vào đêm giao thừa, gia đình thường cử một người con trai đi “mở nước”, tức là đến sông, suối lấy nước về nhà để cúng.
2- Tết của người Dao: Người Dao sinh sống ở vùng núi miền Bắc, họ có Tết Nhảy (Nhiang chăm đao) rất độc đáo, được tổ chức trước tết Nguyên đán của người Kinh vài hôm. Mọi gia đình đều nghỉ làm việc để ăn tết, nhà cửa được trang hoàng sáng sủa, dán nhiều câu đối bằng chữ Hán vào cột hay trên các vách tường mừng xuân. Ngày tết, họ rất vui vẻ đi thăm viếng và chúc tụng lẫn nhau. Họ đón tết nhảy, nhìn các thanh niên biểu diễn võ nghệ rộn ràng, thanh niên biểu diễn các điệu nhảy, điệu múa, trong đấy có múa kiếm, múa kiếm uyển chuyển trong tiếng trống, tiếng chiêng vang rền giục giã.
3- Tết của người Cơ Tu: Người Cơ Tu sinh sống ở miền núi thuộc tỉnh Quảng Nam. Họ tổ chức ăn tết “Prơ giê răm”, nhà nhà trang hoàng đẹp đẽ; cung tên, giáo mác, chiêng, trống... được lau chùi cẩn thận. Tại nhà làng (nhà rông), sơn màu sắc rực rỡ, giữa sân trồng trụ đâm trâu. Dân trong buôn làng tề tựu nơi đây đông đảo nhảy múa, hát dân ca trong không khí tưng bừng. Trai gái trao đổi tâm tình và chơi xuân cả tháng.
4- Tết của người Xơ Đăng: Người Xơ Đăng sinh sống miền rừng núi Kon Tum, mỗi năm họ có 2 tết: Tết Giọt nước và tết Lửa. Tết Giọt nước được tổ chức linh đình hơn, vào khoảng tháng 3 Dương lịch. Khi mùa màng gặt hái xong, họ sửa sang các máng nước và chuẩn bị làm lễ “cúng máng”, cầu xin Thần nước ban cho năm mới bản làng yên ổn, dân làng sức khoẻ dồi dào, mùa màng tươi tốt. Họ đem choé, nồi đồng đến các máng nước lấy nước về nhà. Lễ “cúng máng nước”, được tổ chức rất lớn tại nhà rông, mời thầy cúng, cúng kiếng kỹ lưỡng. Sau đấy, họ ăn uống, ca hát, nhảy múa mấy ngày liền. Tết cũng là dịp trai gái trao đổi tâm tình.
III- Tết làng quê, tết thị thành.
1- Tết làng quê người Việt: Tết là mốc thời gian thay cũ đổi mới, nên ai ai cũng nao nức lẫn lộn lo lắng, để chuẩn bị tết. Những người đi làm lụng xa quê luôn nôn nao “về quê ăn tết”. Về quê ăn tết là dịp được gặp lại gia đình, họ hàng, làng xóm đã xa vắng mấy tháng hay mấy năm. Mọi người sửa sang nhà cửa, chuẩn bị rim mứt, không thể thiếu bánh chưng hoặc bánh tét vào ngày tết, còn lo muối một vại dưa hành cho đúng điệu:
"Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh".
2- Chợ tết: Phong tục đón xuân đã trở thành truyền thống, nên chợ tết vào cuối tháng chạp hàng hoá rất dồi dào, người mua, kẻ bán luôn tấp nập, nói cười rộn rã, nên có câu “vui như chợ tết”. Khu bán hoa vào ngày cận tết, luôn đủ các loại hoa, màu sắc rực rỡ cả một góc trời.
3- Bàn thờ gia tiên: Kể từ rằm tháng chạp, bàn thờ bắt đầu sửa sang, lau chùi tỉ mỉ, đồ đồng nơi bàn thờ đem đánh bóng sáng loáng như mới. Chính giữa hương án là một bình hương để cắm hương. Hai cây đèn đối xứng nhau ở hai bên bình hương. Nhà nào có người làm quan văn thì có cờ, biển, chiêng, trống và có giá để bộ bát bửu (8 thứ quí): Túi thơ, quạt, bầu rượu...Nhà nào có người quan võ thì bày bộ “chấp kích” gồm 8 thứ: Phủ việt, dùi đồng, truỳ, đại côn...những thứ này bằng đồng hoặc bằng gỗ được sơn son thếp vàng.
4- Tết Hà Nội: Hà nội là đất ngàn năm văn vật, nên truyền thống ngày tết có nhiều phong tục đặc biệt. Kể từ đầu tháng chạp, đồng bào đã chuẩn bị tiền bạc để mua sắm tết, nhà cửa sửa sang, từng gia đình không quên vại dưa hành, hũ trứng muối và vài bì lạp xưởng. Ngày tết dù giàu hay nghèo đều có xôi gấc, vì gấc màu đỏ tươi nhìn sáng sủa, còn có hy vọng đem lại may mắn. Đĩa hạt dưa rang màu đỏ, ảnh hưởng từ miền Nam cũng không thể thiếu, nên sau năm 1955, hai miền Nam Bắc chia cắt, miền Bắc phải dùng hạt bí để thay thế.
Những loại cây, hoa được người Hà Nội ưa thích vào dịp tết là đào, quất, nếu gia đình khá giả thì thêm giò thuỷ tiên.
Chiều 30 tháng chạp, làm cỗ cúng tất niên, tiễn năm cũ và khấn mời Cha mẹ, Ông bà, Tổ tiên đã khuất, về cùng ăn tết với con cháu. Ngày tết bàn thờ hương trầm khói nghi ngút, mọi người trong gia đình từ già đến trẻ đều ăn mặc chỉnh tề; con cháu tuần tự đến chúc mừng cha mẹ ông bà; kế đến người lớn lì xì (mừng tuổi) bằng phong bì đỏ, bên trong là tiền mới, để con cháu lấy hên. và người lớn cũng dặn dò con cháu ngoan, chăm chỉ học hành và siêng sắn làm việc.
Người Hà Nội thường dùng các loại trà có tiếng là thơm ngon: Chè ướp sen, chè Ninh Thái, chè Thiết Quan Âm... Món ăn Hà Nội thường được nấu nướng đúng cách, mùi vị thơm tho, cỗ bàn phải đủ lệ đủ món. Mâm cỗ tết thường có 4 bát, 6 đĩa. Khá giả hơn thì 8 bát, 8 đĩa. Bát thì có: Bát miến nấu lòng gà, bát bóng su hào nấu với thịt heo nạt... Đĩa thì có: Đĩa gà luộc, đĩa cá kho riềng, thịt bò kho khô...
(Còn tiếp)
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn