Vào khoảng thế kỷ 17, một tộc người Anh, bị Hoàng đế nước Anh, bắt họ phải cải đạo để theo tôn giáo của nhà vua. Họ không đồng ý, nên bị bắt giam. Sau khi giam một thời gian, nhà vua hỏi lần nữa, họ vẫn cương quyết không cải đạo. Nhà vua bảo: “Nếu họ không cải đạo, thì phải rời khỏi nước Anh”.
Có 35 người theo đạo Tin Lành đã bị vua đuổi ra khỏi xứ. Họ hợp thành nhóm hành hương (Pilgrim), rồi rời Anh quốc đến Leyden, Hòa Lan, tìm được tàu để vượt Đại Tây dương, đi tìm vùng đất hứa. Ngày 16-9-1620, tàu Mayflower khởi hành có trọng tải khoảng 180 tấn, chiều dài 28m, rộng 8m, sâu 3,5 đến 4m. Tàu có hai buồm vuông trên cột buồm và cột chính. Tàu Mayflower gồm có 102 người Anh di cư, trong đó có 31 trẻ em, do thuyền trưởng Christopher Jones (1570-1622) cùng với thủy thủ đoàn khoảng 25-30 người.
Cuộc hành trình lênh đênh trên biển 65 ngày đêm, vượt qua 2750 hải lý (1 hải lý=1km852), tàu Mayflower bị gió bão rất gian nan. Một hành khách và một thủy thủ bị chết vì bệnh, bà Elizabeth Hopkins sinh con trai đặt tên là Oceanus. Họ muốn đến Jamestown, Virgina, nhưng tàu Mayflower bị bão dạt lên phía Bắc và đến Cape Cod Bay ngày 21-11-1620, đây là bờ biển chưa ai đặt chân tới (sau này là Massachusetts).
Ngày 15-12-1620, tàu Mayflower di chuyển đến Plymouth Rock. Thời gian 6 tháng ở nơi đây, suốt mùa đông người di dân vẫn ở trên tàu Mayflower, vì bị thiếu thốn đủ thứ và thời tiết khắc nghiệt, đã gây tử vong khoảng một nửa số người trong số 102 người hành hương, còn sống chỉ có 53 người. Trước hoàn cảnh nguy khốn, thì họ may mắn được thổ dân da Đỏ (Native Indians) nơi đây, đã cho họ bí rợ, thịt gà, giúp cho họ sống. Đến mùa xuân, họ tự xây dựng những lều trại. Thổ dân da Đỏ chỉ họ cách trồng trọt ngô khoai và săn bắt cá, chim. Mùa gặt năm 1621, di dân gặt hái được nông phẩm dồi dào. “Ăn trái nhớ kẻ trồng cây”, William Bradford cùng di dân đã tổ chức lễ Thanksgiving đầu tiên vào tháng 11 năm 1621. Họ mời 91 người thổ dân da đỏ, đã giúp họ trong những ngày đầu khó khăn trên đất Mỹ được sống còn. Từ đó trở đi Thanksgiving thành một tập quán của Hoa Kỳ. Thanksgiving mang ý nghĩa đặc biệt là một truyền thống từ những nhà lập quốc cho đến các người định cư lập nghiệp trên đất nước này.
Đến thời Tổng thống Washington George (1732-1799) đã chọn ngày 26-11-1789, cử hành lễ Thanksgiving cho toàn quốc, nhưng các tiểu bang thường chọn ngày lễ Thanksgiving riêng cho tiểu bang mình. Một trong những người có công trong việc thúc đẩy thành hình ngày lễ Thanksgiving là bà Sarah Josepha Hale; vào năm 1837, bà Sarah là chủ bút báo phụ nữ nổi tiếng “Godeys Ladys Book”. Bà đã viết nhiều lá thư gởi đến các nghị sĩ Quốc hội và những người có thế lực lúc bấy giờ, vận động ngày Thanksgiving vào quốc lễ. Đến năm 1863, Tổng thống Abraham Lincoln (1809-1865) chọn ngày thứ Năm cuối cùng của tháng 11, là ngày lễ Thanksgiving cho toàn quốc Hoa Kỳ và giữ cho đến ngày nay.
Bữa tiệc ngày Thanksgiving, thường có gà Tây quay vàng, bí rợ (thức ăn chính mà người da Đỏ đã mang tới cho di dân), các thứ rau như đậu que, khoai lang, bắp... Thường được nấu nướng theo lối cổ truyền, rau xà lách và bánh nhân bí ngô và mứt dâu tây (crawberry). Bánh nhân bí đỏ và bánh nhân hạt pecan, là loại bánh cổ truyền đặc thù của người Mỹ.
Năm 1630, có thêm 17 tàu chở người di dân đến đất mới trù phú này. Đến 250 năm sau, các thuyền buồm tiếp tục vượt Đại Tây dương, đó là những cuộc di dân lớn nhất trong lịch sử thế giới, với khoảng 11.000.000 người đã đến đất Mỹ.
Sau biến cố ngày 30-4-1975, ở Việt Nam, cả triệu người Việt phải rời quê hương, lúc ấy có khác nào những người di dân (hành hương) đầu tiên đến đất nước Hoa Kỳ.
Ngày nay, có 8 quốc gia trên thế giới đã chính thức tổ chức Thanksgiving: Hoa Kỳ, Canada, Argentina, Brazil, Nhật, Đại Hàn, Liberia và Thụy Sĩ.
Nguyễn Lộc Yên
Có 35 người theo đạo Tin Lành đã bị vua đuổi ra khỏi xứ. Họ hợp thành nhóm hành hương (Pilgrim), rồi rời Anh quốc đến Leyden, Hòa Lan, tìm được tàu để vượt Đại Tây dương, đi tìm vùng đất hứa. Ngày 16-9-1620, tàu Mayflower khởi hành có trọng tải khoảng 180 tấn, chiều dài 28m, rộng 8m, sâu 3,5 đến 4m. Tàu có hai buồm vuông trên cột buồm và cột chính. Tàu Mayflower gồm có 102 người Anh di cư, trong đó có 31 trẻ em, do thuyền trưởng Christopher Jones (1570-1622) cùng với thủy thủ đoàn khoảng 25-30 người.
Cuộc hành trình lênh đênh trên biển 65 ngày đêm, vượt qua 2750 hải lý (1 hải lý=1km852), tàu Mayflower bị gió bão rất gian nan. Một hành khách và một thủy thủ bị chết vì bệnh, bà Elizabeth Hopkins sinh con trai đặt tên là Oceanus. Họ muốn đến Jamestown, Virgina, nhưng tàu Mayflower bị bão dạt lên phía Bắc và đến Cape Cod Bay ngày 21-11-1620, đây là bờ biển chưa ai đặt chân tới (sau này là Massachusetts).
Ngày 15-12-1620, tàu Mayflower di chuyển đến Plymouth Rock. Thời gian 6 tháng ở nơi đây, suốt mùa đông người di dân vẫn ở trên tàu Mayflower, vì bị thiếu thốn đủ thứ và thời tiết khắc nghiệt, đã gây tử vong khoảng một nửa số người trong số 102 người hành hương, còn sống chỉ có 53 người. Trước hoàn cảnh nguy khốn, thì họ may mắn được thổ dân da Đỏ (Native Indians) nơi đây, đã cho họ bí rợ, thịt gà, giúp cho họ sống. Đến mùa xuân, họ tự xây dựng những lều trại. Thổ dân da Đỏ chỉ họ cách trồng trọt ngô khoai và săn bắt cá, chim. Mùa gặt năm 1621, di dân gặt hái được nông phẩm dồi dào. “Ăn trái nhớ kẻ trồng cây”, William Bradford cùng di dân đã tổ chức lễ Thanksgiving đầu tiên vào tháng 11 năm 1621. Họ mời 91 người thổ dân da đỏ, đã giúp họ trong những ngày đầu khó khăn trên đất Mỹ được sống còn. Từ đó trở đi Thanksgiving thành một tập quán của Hoa Kỳ. Thanksgiving mang ý nghĩa đặc biệt là một truyền thống từ những nhà lập quốc cho đến các người định cư lập nghiệp trên đất nước này.
Đến thời Tổng thống Washington George (1732-1799) đã chọn ngày 26-11-1789, cử hành lễ Thanksgiving cho toàn quốc, nhưng các tiểu bang thường chọn ngày lễ Thanksgiving riêng cho tiểu bang mình. Một trong những người có công trong việc thúc đẩy thành hình ngày lễ Thanksgiving là bà Sarah Josepha Hale; vào năm 1837, bà Sarah là chủ bút báo phụ nữ nổi tiếng “Godeys Ladys Book”. Bà đã viết nhiều lá thư gởi đến các nghị sĩ Quốc hội và những người có thế lực lúc bấy giờ, vận động ngày Thanksgiving vào quốc lễ. Đến năm 1863, Tổng thống Abraham Lincoln (1809-1865) chọn ngày thứ Năm cuối cùng của tháng 11, là ngày lễ Thanksgiving cho toàn quốc Hoa Kỳ và giữ cho đến ngày nay.
Bữa tiệc ngày Thanksgiving, thường có gà Tây quay vàng, bí rợ (thức ăn chính mà người da Đỏ đã mang tới cho di dân), các thứ rau như đậu que, khoai lang, bắp... Thường được nấu nướng theo lối cổ truyền, rau xà lách và bánh nhân bí ngô và mứt dâu tây (crawberry). Bánh nhân bí đỏ và bánh nhân hạt pecan, là loại bánh cổ truyền đặc thù của người Mỹ.
Năm 1630, có thêm 17 tàu chở người di dân đến đất mới trù phú này. Đến 250 năm sau, các thuyền buồm tiếp tục vượt Đại Tây dương, đó là những cuộc di dân lớn nhất trong lịch sử thế giới, với khoảng 11.000.000 người đã đến đất Mỹ.
Sau biến cố ngày 30-4-1975, ở Việt Nam, cả triệu người Việt phải rời quê hương, lúc ấy có khác nào những người di dân (hành hương) đầu tiên đến đất nước Hoa Kỳ.
Ngày nay, có 8 quốc gia trên thế giới đã chính thức tổ chức Thanksgiving: Hoa Kỳ, Canada, Argentina, Brazil, Nhật, Đại Hàn, Liberia và Thụy Sĩ.
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn