Diamond Bích-Ngọc
(sưu-tầm & biên soạn)
Theo số liệu ước tính của “The World Factbook” do CIA (Central Intelligence Agency) công bố: vào tháng 7 năm 2012, dân số Việt Nam là 91.519.289 người, đứng hàng thứ 13 trên thế giới.
Trẻ sơ-sinh đến 14 tuổi chiếm tỷ-lệ 24.9% (11.924.283 Nam và 10.824.773 Nữ)
Từ 15 đến 64 tuổi: 69.6% (31.824.777 Nam và 31.887.228 Nữ)
Trên 65 tuổi: 5.5% (1.940.755 Nam và 3.117.473 Nữ)
Việt Nam gồm 54 sắc tộc. Đông nhất là người Kinh, chiếm 85.7%, Tày (1.9%), Thái (1.8%), Mường (1.5%), Khmer (1.5%), Hmông (1.2%), Nùng (1.1%), còn lại 5.3% là người Dao, Giarai, Êđê , Chăm, Sán-Dìu, Raglay... Đa số các dân-tộc này sống ở miền núi trong những vùng sâu, vùng xa phía Bắc, Tây Nguyên, miền Trung và đồng-bằng sông Cửu-Long. Cuối cùng là các dân-tộc Brâu, Ơ-Đu và Rơ-Măm chỉ khoảng trên 300 người.
Link: https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/vm.html
Người Hoa cũng được xem là 1 trong 54 sắc dân thiểu-số tại Việt-Nam. Theo “Từ-Điển Bách-Khoa-Toàn-Thư” họ là người có tổ-tiên đến từ Trung-Quốc. Phần lớn là người Hán, tuy nhiên cũng có những người không thuộc Hán tộc. Phần đông người Hoa ở Việt-Nam cũng như trên thế-giới đều đến từ hai tỉnh cực Nam của Trung Quốc là Quảng-Đông và Phúc-Kiến. Riêng một bộ phận nhỏ đến từ vùng duyên-hải Triều-San thì được gọi là người Triều-Châu. Hiện nay người Hoa ở Việt-Nam gồm hai thành-phần: nhóm thứ nhất đã vào nước ta sinh sống chủ yếu tại miền Nam từ khoảng 300 năm nay (thời Trần-Thượng-Xuyên, Dương-Ngạn-Địch, Mạc-Cửu), số còn lại mới vào Việt-Nam từ đầu thế-kỷ 20 khi nước ta còn là thuộc-địa của Pháp, nhóm này sống nhiều tại Chợ-Lớn. Giống như người Hoa tại các nước khác, ở Việt-Nam họ thường tập-trung trong lĩnh-vực thương-mại và được xem là rất thành-đạt.
“UNHCR” (United Nations High Commissioner for Refugees) tức Cao-Uỷ-Tỵ-Nạn-Liên-Hiệp-Quốc thường nói tắt là "Cao-Ủy-Tỵ-Nạn". Tên gọi rất quen thuộc đối với tất-cả những người Việt-Nam phải rời bỏ đất nước sau biến-cố 30, tháng 4, 1975 - đây là một cơ-quan được thành-lập ngày 14 tháng 12 năm 1950, có trụ sở tại Genève (Thụy Sĩ). Tiền-thân là Tổ-Chức-Quốc-Tế về Người-Tỵ-Nạn (International Refugee Organization) và trước nữa là Cơ-Quan Liên-Hiệp-Quốc về Cứu-Tế và Phục-Hồi (United Nations Relief and Rehabilitation Administration). Mục-đích của Cao-Ủy là chỉ-huy và phối-hợp các hoạt-động quốc-tế nhằm bảo-vệ và giải-quyết nhiều vấn-đề cho người tỵ-nạn trên toàn thế-giới. “UNCHR” đã được tặng Giải Nobel Hòa-Bình hai lần: 1954 và 1981.
“UNHCR” đã ghi-nhận rằng: đồng bào vùng cao (Highland) miền Bắc Việt-Nam tức người Thượng (là một thuật-ngữ có từ thời Pháp thuộc), họ thường cư-trú ngoài vùng sông Hồng và có một nền văn-hóa rất gần-gũi với người Việt-Nam.
Người Thượng có thể được chia thành (ít nhất) trên 30 dân-tộc khác nhau; nói không cùng ngôn-ngữ nhưng chủ yếu là loại “Austronesian Languages” (Ngữ Hệ Nam Đảo) như người Gia Rai, Ê-đê, Rag Lai và Chăm. Nói tiếng “Mon-Khmer” là người: Ba Na, Bru-Vân Kiều, Giẻ Triêng, M'Nông, Xê Đăng và X Tieng. Hầu hết họ theo chế-độ Mẫu Hệ “Matrilineality” (là một hình-thái tổ-chức xã-hội trong đó người phụ-nữ, đặc biệt là người Mẹ, giữ vai trò lãnh-đạo, quyền-lực và tài-sản trong gia-đình được truyền từ Mẹ cho con gái). Người Êđê và Bahnar (Jarai, Rhade, Bahnar, Koho, M'nông, Stiêng) thường là tín-hữu Công-Giáo hay Tin-Lành.
Để dành được sự ủng-hộ từ các nhóm dân-tộc thiểu số ở các vùng cao-nguyên phía Bắc và Trung phần, chính-quyền thực-dân Pháp thành lập khu tự-trị dân-tộc Mường và Thái ở vùng núi Tây- Bắc và Tây-Nguyên Trung bộ như 'Pays Montagnard du Sud' – đặt dưới quyền giám sát trực-tiếp của vua Bảo-Đại lúc bấy giờ.
(Link: http://www.unhcr.org/refworld/topic,463af2212,469f2f9a2,49749c7e16,0.html)
Một số tài-liệu khác cũng ghi-nhận rằng: vào năm 1956, Tổng-Thống Ngô-Đình-Diệm của chính-quyền Đệ-Nhất-Cộng-Hòa Việt-Nam cho thành lập “Văn-Phòng-Cố-Vấn-Thượng-Vụ” để góp ý về những vấn-đề liên-quan đến cao-nguyên miền Thượng, rồi được nâng cấp lên thành “Nha-Công-Tác-Xã-Hội-Miền-Thượng” (nghị định số 302/NV ngày 3-7-1957) trực thuộc Phủ-Tổng-Thống, trụ sở đặt tại Huế.
Mặc dù chính-sách đề ra cố-gắng giúp người Thượng hội-nhập và đề cao khái-niệm quốc-gia nhưng cũng vướng vào hậu-quả gây thiệt-hại kinh-tế và tổn thương tự-ái của các sắc-tộc vùng cao-nguyên Trung phần. Phong trào BAJARAKA bộc phát (đây là chữ viết tắt tên bốn sắc tộc lớn trên Tây Nguyên : BAhnar, dJArai, RhAdé và KAho) kêu gọi vận động dân chúng Thượng chống lại chính quyền miền Nam.
Những người lãnh-đạo phong trào gồm có các ông Y Bham Ênuôl (người Rhadé, sáng lập viên), Siu Síp (nhân sĩ Djarai), Y Dhơn Adrong (hiệu trưởng trường tiểu học Lạc Thiện), Y Nuin Hmok (giáo viên trung học buôn Kram kiêm chính trị viên), Y Nam Êban (sĩ quan), Y Bhan Kpor, Y Chôn Mlô Duôn Du, Nay Luett, Paul Nưr (trí thức Bahnar) và nhiều nhân sĩ gốc Chăm, Mạ, Stiêng, Kor...) như một phản-ứng của người dân miền Thượng.
Cuộc chống đối đầu tiên xảy ra vào giữa tháng 9-1957, trong một buổi học chữ Việt dành cho người Thượng : ông Y Bham Ênuôl công-khai nói lên những bất đồng của người Thượng và đòi quyền "biệt lập" về hành-chánh và chính-trị.
Một năm sau, trong hai tháng 8 và 9-1958, phong trào Bajaraka tổ-chức nhiều cuộc xuống đường tại Kontum, Pleiku, Buôn-Ma-Thuột nhưng đều bị trấn áp, tất cả những lãnh tụ của phong trào đều bị bắt, những thành-phần có uy-tín như sĩ-quan và công-chức Thượng đang công-tác trên cao-nguyên đều bị thuyên-chuyển về đồng bằng. Cộng-đồng người Thượng như rắn mất đầu đã bị cán bộ Cộng-Sản nằm vùng tuyên-truyền và lôi kéo theo họ chống lại chính-quyền miền Nam; không những thế, một số thanh-niên Thượng ưu-tú còn được tuyển mộ ra Bắc học-tập rồi đưa vào Nam hoạt-động cho phe Cộng-Sản.
Trước đe dọa mới này, tháng 10-1958, chính-quyền Ngô Đình Diệm kêu gọi Kinh-Thượng hợp tác chống Cộng và hứa sẽ cải-tổ sâu rộng hơn về kinh-tế, xã-hội miền Thượng.Văn-Phòng Xã- Hội được thành-lập tại Tây-Nguyên, nhiều học-sinh Thượng được đưa về Huế và các thành-phố Qui-Nhơn, Nha-Trang, Đà-Lạt học trong những trường trung-học kỹ-thuật. Một số cán-bộ Thượng được đưa về Sài-Gòn tu-nghiệp tại “Học-Viện-Quốc-Gia-Hành-Chánh”.
Nhưng kết quả đã không như mong muốn, Văn-Phòng Xã-Hội không hoạt động gì cả, các học- sinh Thượng ra trường (khoảng 150 người mỗi năm) không tìm được việc làm vì thiếu trình độ; bằng cấp của học sinh Thượng thường do nâng đỡ.Đời sống của người Thượng không sáng sủa gì hơn… (trích từ tài-liệu của chuyên-gia dân-tộc tại Pháp: Nguyễn-Văn-Huy).
Khi nền Đệ Nhất Cộng-Hòa sụp đổ, năm 1964 “Nha-Công-Tác-Xã-Hội-Miền-Thượng” đổi thành “Nha-Ðặc-Trách-Thượng-Vụ” trực thuộc Bộ-Quốc-Phòng và sau đó được nâng cấp lên thành “Phủ-Ðặc-Ủy-Thượng-Vụ”.
Sang thời Đệ Nhị Cộng-Hòa: năm 1969, “Bộ-Phát-Triển-Sắc-Tộc” được thành lập ngay trong chính-phủ Việt-Nam-Cộng-Hòa do một người Thượng lãnh đạo, có chức-năng tương-đương các Bộ khác. Tổng-Trưởng Bộ-Sắc-Tộc lúc bấy giờ lần lượt là các ông Paul Nưr, Ya Ba, cuối cùng là ông Nay Luett (Nay Louette), một lãnh-tụ người GiaRai.
Cho đến ngày nay, dân-tộc Kinh chiếm khoảng hai phần ba dân-số người miền Thượng.
Chúng tôi vừa sơ-lược vắn-tắt về nguồn gốc và đời sống của người thiể-số Việt-Nam.
Hơn mười năm qua, trên những chặng đường chia xẻ tình-thương đến các đồng-bào khó nghèo vùng Thượng-Du; chúng tôi đã có cơ may gặp trực-tiếp nhiều sắc tộc như: Xinh-Mun, Mường, La-Ha, Chăm, Dao, Hre, Ba-Na, Lô-Lô, Tày, Thái, Cơ-Tu, Nùng… Họ sống hiền hòa như cây, như cỏ. Bình-dị, hoang-sơ trong những căn nhà sàn trên triền đồi hoặc ngay ở vách núi cheo-leo. Ấn-tượng sâu đậm nhất trong tôi là những bộ trang-phục rất đẹp mắt và đầy sức quyến rũ của các Sơn-Nữ núi rừng cao-nguyên huyền-bí– Đó chính là: “Thổ-Cẩm Việt-Nam”.
Mỗi một vùng đất, mỗi một tộc người có những nét rất riêng mà phải thật tinh-ý chúng ta mới nhận biết được qua chất liệu mềm mại, màu sắc và hoa-văn đầy ý-nghĩa trên mặt vải. Đặc biệt càng ở vùng núi cao, nơi quanh năm mây mù bao phủ, hoa-văn của họ càng thiên về màu nóng với nhiều đỏ, vàng. Ở cổ và nẹp áo phụ-nữ Mông-Hoa có xử-dụng chỉ màu đỏ, xanh lá cây thêu hình con ốc (lầu kưx), loại ốc này sống trên cạn, còn gọi là ốc rồng (Kưx rong), hoặc bố-cục theo lối băng ngang họa tiết hình con chim (lầu-mờ-nông) cách điệu, nổi rõ hai bên nẹp trên nền vải trắng.
Hoa-văn của mỗi dân-tộc đều mang những nét đặc-trưng riêng về bố-cục, màu sắc, lối trang-trí, tạo nên sự phong-phú đa-dạng, nhưng chúng lại thể-hiện một sự thống-nhất cao về tính hình-học và cách điệu hóa. Loại hoa-văn này phản-ánh một thế-giới-quan về vũ-trụ và thiên-nhiên như mặt trời, hoa lá, sóng nước, núi non, cây thông hoặc các loài động vật... Đôi khi mang hình chim thú, hoa lá được dệt trong từng ô vuông nhỏ, cân-đối, rất tỉ-mỉ; tạo nên cảm-giác hoang-sơ sắc-xảo, biểu-tượng của từng dân-tộc Thượng; hoa-văn nổi lên trên bề mặt vải như thêu, đem lại sự tương-phản nhưng rất hòa-hợp qua từng sắc độ của màu.
Nghề dệt Thổ-Cẩm có từ rất lâu đời ở nước ta, trước đây sản-phẩm này được tạo ra chủ-yếu nhằm phục-vụ nhu-cầu trong gia-đình các bộ-tộc, làm của hồi-môn khi con gái về nhà chồng và một phần để trao đổi hàng-hoá lấy lương-thực.Ngày nay, Thổ-Cẩm là những món quà lưu-niệm rất được ưa chuộng đối với khách du-lịch khi đi đến các vùng cao-nguyên Việt-Nam.
Nguyên-liệu chính được xử-dụng là bông vải; thu hoạch theo mùa được đánh tơi xốp rồi kéo thành sợi.Một số dân-tộc còn khai-thác chất liệu từ vỏ cây kéo thành sợi. Kỹ-thuật lấy sợi và mắc thành cuộn theo các quy trình sau:
Cho bông qua giá tách hạt - Cung bật bông - Xa quấn tơ - Xa bắt chỉ - Xa đánh ống - Giá mắc sợi - Khung xỏ go.
Quá trình nhuộm vải như sau:
Màu nhuộm dành cho Thổ-Cẩm có thể được tạo ra từ nhiều chất liệu thiên-nhiên và phương-pháp khác nhau:
- Màu đen: ngâm lá chùm bầu với bùn non từ ba đến bảy ngày đêm hoặc ngâm lá chàm.
- Màu nâu hoặc màu đỏ sẫm lấy từ các loại vỏ cây.
- Màu xanh: nung vỏ ốc suối thật khô, ngâm thành vôi rồi trộn với nước lá krum; hoặc ngâm lá chàm.
- Màu đỏ: giã vỏ cây krung già ra, nấu lên.
- Màu nâu đỏ: ngâm giấm vỏ cây sủi, đun sôi khoảng ba giờ và làm mát qua đêm, pha thêm phèn rồi ngâm sợi vải ở nhiệt độ 80 độ C.
- Màu vàng: nhuộm từ củ nghệ.
Sau khi nhuộm, sợi được phơi khô. Người thợ nhuộm xử-dụng một chiếc bàn chải (kruamrai), chải dọc theo cuộn sợi để gỡ sạch các vụn màu và vỏ cây.
Hàng Thổ-Cẩm cũng đã được nhà thiết-kế nổi tiếng Minh-Hạnh (Saigon) đem sang Pháp để tham-dự Festival ngành dệt may từ ngày 12 đến 16 tháng 9, 2012 vừa qua tại Clermont Ferrand. Thổ-Cẩm Việt-Nam đã được xếp vào mặt hàng mang tầm-vóc quốc-tế vì để lại rất nhiều ấn-tượng đẹp và được mọi người vô cùng yêu thích & hâm-mộ.
Trong những chương-trình sinh-hoạt âm-nhạc thiện-nguyện của gia-đình “Chân-Quê” hàng tháng tại các Trung-Tâm-Điều-Dưỡng (Nursing-Home) vùng quận Cam, California – Hoa-Kỳ không ngừng nghỉ suốt 12 năm qua. Diamond Bích-Ngọc luôn sưu-tầm và tự thiết-kế các trang-phục lạ, thật đẹp mắt – thay đổi theo từng mùa cho tất-cả các ca-nhạc-sĩ than-gia thiện-nguyện. Như tháng 10 (chủ-đề mừng lễ Halloween; thay vì là những bộ custumes ma-quái); chúng tôi đã dầy công đi về miền Thượng-Du Việt-Nam; sưu-tầm hàng Thổ-Cẩm đem đến trình-diễn cho khán-giả; đặc-biệt là những bệnh-nhân, y-tá, bác-sĩ người Mỹ trong Nursing-Home; giới-thiệu nét đặc thù, về nền văn-hóa độc đáo Việt-Nam.
Các thiện-nguyện-viên cũng luôn chuẩn bị chu-đáo cho chương-trình, như anh Quốc-Hùng (Black Caps) phải soạn hòa-âm, gửi MP3 qua Email cho từng thành-viên nghe trước, nhạc-sĩ kỳ-cựu Châu-Hiệp phối-khí bằng thanh-âm guitarist điêu-luyện, rất tuyệt-vời! Các ca-nhạc-sĩ: Trung-Chánh, Dr. David Bui, M.D, Thanh-Hằng, Thùy-Liêm, Lan-Anh tập dợt kỹ càng sao cho đúng nhịp, đúng âm-vực của từng nốt, từng cung bậc, giai-điệu nhạc trước ngày biểu-diễn. Riêng ca-nhạc-sĩ Thái-Nguyên và Diamond Bích-Ngọc, cuối tuần phải lái xe chở đầy nhạc-cụ đi và về mỗi lượt 5 tiếng đồng-hồ từ nhà đến các Nursing-Home không quản ngại đường xa đầy bất trắc (vì “Tejon Pass” hiểm-trở - mùa Đông tuyết rơi và mùa Hè thì dễ cháy rừng; đôi khi cảnh-sát chặn tất-cả xe cộ không cho vượt đèo để tránh hiểm-nguy!) Xem thêm chi-tiết qua “link”: http://www.vietbao.com/D_1-2_2-44_4-180440_5-15_6-1_17-1_14-2_15-2_10-5138_12-1/
Những cố-gắng về nội-dung lẫn hình-thức này không ngoài mục đích phục-vụ cho khán-giả - dù họ chỉ là những bệnh-nhân yếu đuối; không đủ sức trao tặng lại bằng những tràng pháo tay nồng nàn như trong các buổi đại-nhạc-hội ngoài đời. Nhưng qua cách tỏ bày sự cảm-kích, trân-quý bằng ánh mắt rạng ngời vui sướng hồn-nhiên, nét cười hay những giọt nước mắt cảm-động yêu-thương, những bắt tay xiết chặt không muốn xa rời của khán-giả đối với các thiện-nguyện-viên.Tất-cả biểu-hiện này phải chăng đã quá đủ bù đắp cho sự hy-sinh về thời-gian, công sức & vật-chất của gia-đình “Chân-Quê”;làm hành-trang tiếp tục cho chúng tôi trên bước đường phụng-sự tha-nhân.
Để đúc kết bài viết này, xin phép mượn những câu thơ rất “Thiền”, rất dễ-thương của thi-sĩ Du-Tử-Lê để tặng cho chính mình và tất-cả các thiện-nguyện-viên trên toàn thế-giới:
“Thế giới vì em sẽ dịu hiền
Biển đời phút chốc bỗng bình-yên
Cánh chim tịch tịch miền vô niệm
Vô chấp em ngồi như Quan-Âm”
(Trích từ thi-phẩm: Vì Em Tôi Đã Làm Sa-di)
Diamond Bích-Ngọc (sưu-tầm & biên soạn - www.diamondbichngoc.com)
(sưu-tầm & biên soạn)
Theo số liệu ước tính của “The World Factbook” do CIA (Central Intelligence Agency) công bố: vào tháng 7 năm 2012, dân số Việt Nam là 91.519.289 người, đứng hàng thứ 13 trên thế giới.
Trẻ sơ-sinh đến 14 tuổi chiếm tỷ-lệ 24.9% (11.924.283 Nam và 10.824.773 Nữ)
Từ 15 đến 64 tuổi: 69.6% (31.824.777 Nam và 31.887.228 Nữ)
Trên 65 tuổi: 5.5% (1.940.755 Nam và 3.117.473 Nữ)
Việt Nam gồm 54 sắc tộc. Đông nhất là người Kinh, chiếm 85.7%, Tày (1.9%), Thái (1.8%), Mường (1.5%), Khmer (1.5%), Hmông (1.2%), Nùng (1.1%), còn lại 5.3% là người Dao, Giarai, Êđê , Chăm, Sán-Dìu, Raglay... Đa số các dân-tộc này sống ở miền núi trong những vùng sâu, vùng xa phía Bắc, Tây Nguyên, miền Trung và đồng-bằng sông Cửu-Long. Cuối cùng là các dân-tộc Brâu, Ơ-Đu và Rơ-Măm chỉ khoảng trên 300 người.
Link: https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/vm.html
Người Hoa cũng được xem là 1 trong 54 sắc dân thiểu-số tại Việt-Nam. Theo “Từ-Điển Bách-Khoa-Toàn-Thư” họ là người có tổ-tiên đến từ Trung-Quốc. Phần lớn là người Hán, tuy nhiên cũng có những người không thuộc Hán tộc. Phần đông người Hoa ở Việt-Nam cũng như trên thế-giới đều đến từ hai tỉnh cực Nam của Trung Quốc là Quảng-Đông và Phúc-Kiến. Riêng một bộ phận nhỏ đến từ vùng duyên-hải Triều-San thì được gọi là người Triều-Châu. Hiện nay người Hoa ở Việt-Nam gồm hai thành-phần: nhóm thứ nhất đã vào nước ta sinh sống chủ yếu tại miền Nam từ khoảng 300 năm nay (thời Trần-Thượng-Xuyên, Dương-Ngạn-Địch, Mạc-Cửu), số còn lại mới vào Việt-Nam từ đầu thế-kỷ 20 khi nước ta còn là thuộc-địa của Pháp, nhóm này sống nhiều tại Chợ-Lớn. Giống như người Hoa tại các nước khác, ở Việt-Nam họ thường tập-trung trong lĩnh-vực thương-mại và được xem là rất thành-đạt.
Các ca-nhạc-sĩ: Thanh-Hằng, Dr. David Bui, M.D, Thùy-Liêm, Lan-Anh, Châu-Hiệp, Quốc-Hùng, An-Khoa, Diamond Bích-Ngọc, Thái-Nguyên và Trung-Chánh trong trang-phục “Thổ-Cẩm” trình-diễn tại Garden Park Care Center (sinh-hoạt thiện-nguyện tháng 10 -2012).
Trong giới-hạn của bài viết này, chúng tôi chỉ xin nói đến những nét đặc-sắc của người thiểu-số vùng cao-nguyên Việt-Nam, tức người Thượng.“UNHCR” (United Nations High Commissioner for Refugees) tức Cao-Uỷ-Tỵ-Nạn-Liên-Hiệp-Quốc thường nói tắt là "Cao-Ủy-Tỵ-Nạn". Tên gọi rất quen thuộc đối với tất-cả những người Việt-Nam phải rời bỏ đất nước sau biến-cố 30, tháng 4, 1975 - đây là một cơ-quan được thành-lập ngày 14 tháng 12 năm 1950, có trụ sở tại Genève (Thụy Sĩ). Tiền-thân là Tổ-Chức-Quốc-Tế về Người-Tỵ-Nạn (International Refugee Organization) và trước nữa là Cơ-Quan Liên-Hiệp-Quốc về Cứu-Tế và Phục-Hồi (United Nations Relief and Rehabilitation Administration). Mục-đích của Cao-Ủy là chỉ-huy và phối-hợp các hoạt-động quốc-tế nhằm bảo-vệ và giải-quyết nhiều vấn-đề cho người tỵ-nạn trên toàn thế-giới. “UNCHR” đã được tặng Giải Nobel Hòa-Bình hai lần: 1954 và 1981.
“UNHCR” đã ghi-nhận rằng: đồng bào vùng cao (Highland) miền Bắc Việt-Nam tức người Thượng (là một thuật-ngữ có từ thời Pháp thuộc), họ thường cư-trú ngoài vùng sông Hồng và có một nền văn-hóa rất gần-gũi với người Việt-Nam.
Người Thượng có thể được chia thành (ít nhất) trên 30 dân-tộc khác nhau; nói không cùng ngôn-ngữ nhưng chủ yếu là loại “Austronesian Languages” (Ngữ Hệ Nam Đảo) như người Gia Rai, Ê-đê, Rag Lai và Chăm. Nói tiếng “Mon-Khmer” là người: Ba Na, Bru-Vân Kiều, Giẻ Triêng, M'Nông, Xê Đăng và X Tieng. Hầu hết họ theo chế-độ Mẫu Hệ “Matrilineality” (là một hình-thái tổ-chức xã-hội trong đó người phụ-nữ, đặc biệt là người Mẹ, giữ vai trò lãnh-đạo, quyền-lực và tài-sản trong gia-đình được truyền từ Mẹ cho con gái). Người Êđê và Bahnar (Jarai, Rhade, Bahnar, Koho, M'nông, Stiêng) thường là tín-hữu Công-Giáo hay Tin-Lành.
Các ca-nhạc-sĩ gia-đình “Chân-Quê” mang màu sắc “Thổ-Cẩm” tươi vui đến “Pacific Heaven Health Care Center”. Một Nursing-Home với 99% là người Mỹ trắng.
Người Thượng có nguồn gốc từ các nhóm khác nhau, người ta cho rằng họ đã đến định-cư ở những vùng phía nam Đông-Dương cách đây hơn 2.000 năm - trước khi có sự xuất-hiện của dân-tộc Kinh. Trong suốt thời kỳ tiền thuộc-địa, đồng bào dân-tộc thiểu-số này vẫn duy-trì sự tự-trị với nhà nước Việt-Nam. Từ khi Pháp chiếm Đông-Dương các khu-vực vùng cao là mục-tiêu của giáo-dục truyền giáo và các hoạt-động thương-mại. Người Pháp dùng chính sách “chia để trị” (devide and conquer) giữa người “Thượng” và “Kinh” (tương-tự như hình-thức chia dân-tộc ta làm ba phần: Bắc, Trung & Nam). Từ đó gây ra những mâu-thuẫn nên đã có những cuộc nổi dậy như của người Jarai kéo dài cho đến cuối những năm 1930. Để dành được sự ủng-hộ từ các nhóm dân-tộc thiểu số ở các vùng cao-nguyên phía Bắc và Trung phần, chính-quyền thực-dân Pháp thành lập khu tự-trị dân-tộc Mường và Thái ở vùng núi Tây- Bắc và Tây-Nguyên Trung bộ như 'Pays Montagnard du Sud' – đặt dưới quyền giám sát trực-tiếp của vua Bảo-Đại lúc bấy giờ.
(Link: http://www.unhcr.org/refworld/topic,463af2212,469f2f9a2,49749c7e16,0.html)
Một số tài-liệu khác cũng ghi-nhận rằng: vào năm 1956, Tổng-Thống Ngô-Đình-Diệm của chính-quyền Đệ-Nhất-Cộng-Hòa Việt-Nam cho thành lập “Văn-Phòng-Cố-Vấn-Thượng-Vụ” để góp ý về những vấn-đề liên-quan đến cao-nguyên miền Thượng, rồi được nâng cấp lên thành “Nha-Công-Tác-Xã-Hội-Miền-Thượng” (nghị định số 302/NV ngày 3-7-1957) trực thuộc Phủ-Tổng-Thống, trụ sở đặt tại Huế.
Mặc dù chính-sách đề ra cố-gắng giúp người Thượng hội-nhập và đề cao khái-niệm quốc-gia nhưng cũng vướng vào hậu-quả gây thiệt-hại kinh-tế và tổn thương tự-ái của các sắc-tộc vùng cao-nguyên Trung phần. Phong trào BAJARAKA bộc phát (đây là chữ viết tắt tên bốn sắc tộc lớn trên Tây Nguyên : BAhnar, dJArai, RhAdé và KAho) kêu gọi vận động dân chúng Thượng chống lại chính quyền miền Nam.
Những người lãnh-đạo phong trào gồm có các ông Y Bham Ênuôl (người Rhadé, sáng lập viên), Siu Síp (nhân sĩ Djarai), Y Dhơn Adrong (hiệu trưởng trường tiểu học Lạc Thiện), Y Nuin Hmok (giáo viên trung học buôn Kram kiêm chính trị viên), Y Nam Êban (sĩ quan), Y Bhan Kpor, Y Chôn Mlô Duôn Du, Nay Luett, Paul Nưr (trí thức Bahnar) và nhiều nhân sĩ gốc Chăm, Mạ, Stiêng, Kor...) như một phản-ứng của người dân miền Thượng.
Cuộc chống đối đầu tiên xảy ra vào giữa tháng 9-1957, trong một buổi học chữ Việt dành cho người Thượng : ông Y Bham Ênuôl công-khai nói lên những bất đồng của người Thượng và đòi quyền "biệt lập" về hành-chánh và chính-trị.
Một năm sau, trong hai tháng 8 và 9-1958, phong trào Bajaraka tổ-chức nhiều cuộc xuống đường tại Kontum, Pleiku, Buôn-Ma-Thuột nhưng đều bị trấn áp, tất cả những lãnh tụ của phong trào đều bị bắt, những thành-phần có uy-tín như sĩ-quan và công-chức Thượng đang công-tác trên cao-nguyên đều bị thuyên-chuyển về đồng bằng. Cộng-đồng người Thượng như rắn mất đầu đã bị cán bộ Cộng-Sản nằm vùng tuyên-truyền và lôi kéo theo họ chống lại chính-quyền miền Nam; không những thế, một số thanh-niên Thượng ưu-tú còn được tuyển mộ ra Bắc học-tập rồi đưa vào Nam hoạt-động cho phe Cộng-Sản.
Trước đe dọa mới này, tháng 10-1958, chính-quyền Ngô Đình Diệm kêu gọi Kinh-Thượng hợp tác chống Cộng và hứa sẽ cải-tổ sâu rộng hơn về kinh-tế, xã-hội miền Thượng.Văn-Phòng Xã- Hội được thành-lập tại Tây-Nguyên, nhiều học-sinh Thượng được đưa về Huế và các thành-phố Qui-Nhơn, Nha-Trang, Đà-Lạt học trong những trường trung-học kỹ-thuật. Một số cán-bộ Thượng được đưa về Sài-Gòn tu-nghiệp tại “Học-Viện-Quốc-Gia-Hành-Chánh”.
Nhưng kết quả đã không như mong muốn, Văn-Phòng Xã-Hội không hoạt động gì cả, các học- sinh Thượng ra trường (khoảng 150 người mỗi năm) không tìm được việc làm vì thiếu trình độ; bằng cấp của học sinh Thượng thường do nâng đỡ.Đời sống của người Thượng không sáng sủa gì hơn… (trích từ tài-liệu của chuyên-gia dân-tộc tại Pháp: Nguyễn-Văn-Huy).
Khi nền Đệ Nhất Cộng-Hòa sụp đổ, năm 1964 “Nha-Công-Tác-Xã-Hội-Miền-Thượng” đổi thành “Nha-Ðặc-Trách-Thượng-Vụ” trực thuộc Bộ-Quốc-Phòng và sau đó được nâng cấp lên thành “Phủ-Ðặc-Ủy-Thượng-Vụ”.
Sang thời Đệ Nhị Cộng-Hòa: năm 1969, “Bộ-Phát-Triển-Sắc-Tộc” được thành lập ngay trong chính-phủ Việt-Nam-Cộng-Hòa do một người Thượng lãnh đạo, có chức-năng tương-đương các Bộ khác. Tổng-Trưởng Bộ-Sắc-Tộc lúc bấy giờ lần lượt là các ông Paul Nưr, Ya Ba, cuối cùng là ông Nay Luett (Nay Louette), một lãnh-tụ người GiaRai.
Cho đến ngày nay, dân-tộc Kinh chiếm khoảng hai phần ba dân-số người miền Thượng.
Chúng tôi vừa sơ-lược vắn-tắt về nguồn gốc và đời sống của người thiể-số Việt-Nam.
Hơn mười năm qua, trên những chặng đường chia xẻ tình-thương đến các đồng-bào khó nghèo vùng Thượng-Du; chúng tôi đã có cơ may gặp trực-tiếp nhiều sắc tộc như: Xinh-Mun, Mường, La-Ha, Chăm, Dao, Hre, Ba-Na, Lô-Lô, Tày, Thái, Cơ-Tu, Nùng… Họ sống hiền hòa như cây, như cỏ. Bình-dị, hoang-sơ trong những căn nhà sàn trên triền đồi hoặc ngay ở vách núi cheo-leo. Ấn-tượng sâu đậm nhất trong tôi là những bộ trang-phục rất đẹp mắt và đầy sức quyến rũ của các Sơn-Nữ núi rừng cao-nguyên huyền-bí– Đó chính là: “Thổ-Cẩm Việt-Nam”.
Mỗi một vùng đất, mỗi một tộc người có những nét rất riêng mà phải thật tinh-ý chúng ta mới nhận biết được qua chất liệu mềm mại, màu sắc và hoa-văn đầy ý-nghĩa trên mặt vải. Đặc biệt càng ở vùng núi cao, nơi quanh năm mây mù bao phủ, hoa-văn của họ càng thiên về màu nóng với nhiều đỏ, vàng. Ở cổ và nẹp áo phụ-nữ Mông-Hoa có xử-dụng chỉ màu đỏ, xanh lá cây thêu hình con ốc (lầu kưx), loại ốc này sống trên cạn, còn gọi là ốc rồng (Kưx rong), hoặc bố-cục theo lối băng ngang họa tiết hình con chim (lầu-mờ-nông) cách điệu, nổi rõ hai bên nẹp trên nền vải trắng.
Hoa-văn của mỗi dân-tộc đều mang những nét đặc-trưng riêng về bố-cục, màu sắc, lối trang-trí, tạo nên sự phong-phú đa-dạng, nhưng chúng lại thể-hiện một sự thống-nhất cao về tính hình-học và cách điệu hóa. Loại hoa-văn này phản-ánh một thế-giới-quan về vũ-trụ và thiên-nhiên như mặt trời, hoa lá, sóng nước, núi non, cây thông hoặc các loài động vật... Đôi khi mang hình chim thú, hoa lá được dệt trong từng ô vuông nhỏ, cân-đối, rất tỉ-mỉ; tạo nên cảm-giác hoang-sơ sắc-xảo, biểu-tượng của từng dân-tộc Thượng; hoa-văn nổi lên trên bề mặt vải như thêu, đem lại sự tương-phản nhưng rất hòa-hợp qua từng sắc độ của màu.
Nghề dệt Thổ-Cẩm có từ rất lâu đời ở nước ta, trước đây sản-phẩm này được tạo ra chủ-yếu nhằm phục-vụ nhu-cầu trong gia-đình các bộ-tộc, làm của hồi-môn khi con gái về nhà chồng và một phần để trao đổi hàng-hoá lấy lương-thực.Ngày nay, Thổ-Cẩm là những món quà lưu-niệm rất được ưa chuộng đối với khách du-lịch khi đi đến các vùng cao-nguyên Việt-Nam.
Nguyên-liệu chính được xử-dụng là bông vải; thu hoạch theo mùa được đánh tơi xốp rồi kéo thành sợi.Một số dân-tộc còn khai-thác chất liệu từ vỏ cây kéo thành sợi. Kỹ-thuật lấy sợi và mắc thành cuộn theo các quy trình sau:
Cho bông qua giá tách hạt - Cung bật bông - Xa quấn tơ - Xa bắt chỉ - Xa đánh ống - Giá mắc sợi - Khung xỏ go.
Quá trình nhuộm vải như sau:
Màu nhuộm dành cho Thổ-Cẩm có thể được tạo ra từ nhiều chất liệu thiên-nhiên và phương-pháp khác nhau:
- Màu đen: ngâm lá chùm bầu với bùn non từ ba đến bảy ngày đêm hoặc ngâm lá chàm.
- Màu nâu hoặc màu đỏ sẫm lấy từ các loại vỏ cây.
- Màu xanh: nung vỏ ốc suối thật khô, ngâm thành vôi rồi trộn với nước lá krum; hoặc ngâm lá chàm.
- Màu đỏ: giã vỏ cây krung già ra, nấu lên.
- Màu nâu đỏ: ngâm giấm vỏ cây sủi, đun sôi khoảng ba giờ và làm mát qua đêm, pha thêm phèn rồi ngâm sợi vải ở nhiệt độ 80 độ C.
- Màu vàng: nhuộm từ củ nghệ.
Sau khi nhuộm, sợi được phơi khô. Người thợ nhuộm xử-dụng một chiếc bàn chải (kruamrai), chải dọc theo cuộn sợi để gỡ sạch các vụn màu và vỏ cây.
Hàng Thổ-Cẩm cũng đã được nhà thiết-kế nổi tiếng Minh-Hạnh (Saigon) đem sang Pháp để tham-dự Festival ngành dệt may từ ngày 12 đến 16 tháng 9, 2012 vừa qua tại Clermont Ferrand. Thổ-Cẩm Việt-Nam đã được xếp vào mặt hàng mang tầm-vóc quốc-tế vì để lại rất nhiều ấn-tượng đẹp và được mọi người vô cùng yêu thích & hâm-mộ.
Trong những chương-trình sinh-hoạt âm-nhạc thiện-nguyện của gia-đình “Chân-Quê” hàng tháng tại các Trung-Tâm-Điều-Dưỡng (Nursing-Home) vùng quận Cam, California – Hoa-Kỳ không ngừng nghỉ suốt 12 năm qua. Diamond Bích-Ngọc luôn sưu-tầm và tự thiết-kế các trang-phục lạ, thật đẹp mắt – thay đổi theo từng mùa cho tất-cả các ca-nhạc-sĩ than-gia thiện-nguyện. Như tháng 10 (chủ-đề mừng lễ Halloween; thay vì là những bộ custumes ma-quái); chúng tôi đã dầy công đi về miền Thượng-Du Việt-Nam; sưu-tầm hàng Thổ-Cẩm đem đến trình-diễn cho khán-giả; đặc-biệt là những bệnh-nhân, y-tá, bác-sĩ người Mỹ trong Nursing-Home; giới-thiệu nét đặc thù, về nền văn-hóa độc đáo Việt-Nam.
Các thiện-nguyện-viên cũng luôn chuẩn bị chu-đáo cho chương-trình, như anh Quốc-Hùng (Black Caps) phải soạn hòa-âm, gửi MP3 qua Email cho từng thành-viên nghe trước, nhạc-sĩ kỳ-cựu Châu-Hiệp phối-khí bằng thanh-âm guitarist điêu-luyện, rất tuyệt-vời! Các ca-nhạc-sĩ: Trung-Chánh, Dr. David Bui, M.D, Thanh-Hằng, Thùy-Liêm, Lan-Anh tập dợt kỹ càng sao cho đúng nhịp, đúng âm-vực của từng nốt, từng cung bậc, giai-điệu nhạc trước ngày biểu-diễn. Riêng ca-nhạc-sĩ Thái-Nguyên và Diamond Bích-Ngọc, cuối tuần phải lái xe chở đầy nhạc-cụ đi và về mỗi lượt 5 tiếng đồng-hồ từ nhà đến các Nursing-Home không quản ngại đường xa đầy bất trắc (vì “Tejon Pass” hiểm-trở - mùa Đông tuyết rơi và mùa Hè thì dễ cháy rừng; đôi khi cảnh-sát chặn tất-cả xe cộ không cho vượt đèo để tránh hiểm-nguy!) Xem thêm chi-tiết qua “link”: http://www.vietbao.com/D_1-2_2-44_4-180440_5-15_6-1_17-1_14-2_15-2_10-5138_12-1/
Những cố-gắng về nội-dung lẫn hình-thức này không ngoài mục đích phục-vụ cho khán-giả - dù họ chỉ là những bệnh-nhân yếu đuối; không đủ sức trao tặng lại bằng những tràng pháo tay nồng nàn như trong các buổi đại-nhạc-hội ngoài đời. Nhưng qua cách tỏ bày sự cảm-kích, trân-quý bằng ánh mắt rạng ngời vui sướng hồn-nhiên, nét cười hay những giọt nước mắt cảm-động yêu-thương, những bắt tay xiết chặt không muốn xa rời của khán-giả đối với các thiện-nguyện-viên.Tất-cả biểu-hiện này phải chăng đã quá đủ bù đắp cho sự hy-sinh về thời-gian, công sức & vật-chất của gia-đình “Chân-Quê”;làm hành-trang tiếp tục cho chúng tôi trên bước đường phụng-sự tha-nhân.
Để đúc kết bài viết này, xin phép mượn những câu thơ rất “Thiền”, rất dễ-thương của thi-sĩ Du-Tử-Lê để tặng cho chính mình và tất-cả các thiện-nguyện-viên trên toàn thế-giới:
“Thế giới vì em sẽ dịu hiền
Biển đời phút chốc bỗng bình-yên
Cánh chim tịch tịch miền vô niệm
Vô chấp em ngồi như Quan-Âm”
(Trích từ thi-phẩm: Vì Em Tôi Đã Làm Sa-di)
Diamond Bích-Ngọc (sưu-tầm & biên soạn - www.diamondbichngoc.com)
Gửi ý kiến của bạn