Hôm nay,  

Nhớ Vũ Cao Hiến Với Bản Quân Trường Xưa

11/05/201200:00:00(Xem: 17082)
Trong khuôn khổ những hình thức kỷ niệm 37 năm sau ngày tàn cuộc, tôi chú ý đến một sự kiện là người ta không phát lại nhiều những bản hùng ca của một thời lửa đạn nhằm nhắc nhớ những nét hào hùng và bi kịch của một giai đoạn lịch sử trong đó hàng triệu người đã nằm xuống, mang thương tật, gánh chịu những mất mát không tên chỉ vì lý tưởng tự do và sự tồn tại của một chính thể mà đến giờ này sự sụp đổ của nó vẫn là niềm nhức nhối.

Các phương tiện truyền thông hải ngoại luôn đi đầu trong các hoạt động này năm nay họ chuyển hướng, đặc biệt có nhắc đến một mảng âm nhạc mà người ta quen gọi là tù ca được sáng tác và hát chui trong các trại tù cải tạo ngoài Bắc lẫn trong Nam, trên các chuyến tàu chuyển tù xuôi Nam ngược Bắc mà thời điểm kéo dài hơn cả một thập niên sau 75.

Tôi đã có dịp được nghe lại nhiều bản tù ca của nhiều tác giả mà đa phần là không chuyên, họ viết nhạc và lời chủ yếu viết và hát cho nhau nghe, trước mắt làm vơi đi nỗi nhọc nhằn trong cảnh tù mà xem ra ngày về vẫn là một viễn cảnh đường hầm chưa có tia sáng. Họ cũng chẳng mong chẳng ngờ những dòng nhạc đơn sơ những lời ca trăn trở ấp ủ trong lòng họ một ngày nào đó sẽ trở thành một tư liệu vật thể làm chứng nhân cho những người vĩnh viễn ở lại với núi rừng. Chuyện đã xảy ra cũng chẳng phải là đơn lẻ vì trong số họ có nhạc sĩ Thục Vũ (trung tá Vũ Văn Sâm), tác giả bản tù ca Anh Ở Đây đã thực sự ở lại Yên Bái trong đợt chuyển tù ra Bắc đầu tiên.

Cũng chẳng hẹn mà gặp là có sự trùng hợp trong sáng kiến trân trọng những dòng nhạc tù ca mà những người một thời dù không trải nghiệm trong các trại tù cải tạo cũng phải rơi lệ chạnh lòng khi nó được hát lại trong các cuộc họp mặt hội đoàn tại hải ngoại, trong các đêm tù ca những lần hội ngộ cựu binh, qua các dịp phụ diễn của ban tù ca Xuân Điềm trong các lễ lạc cộng đồng dưới mọi hình thức. Có hai chuyên đề tôi đã đọc, mà ở diện phát tán rộng rãi là chương trình của RFI, đài truyền thanh quốc tế có tiết mục âm nhạc cuối tuần gây nhiều hứng thú cho người nghe chẳng kém gì các chuyên đề chính trị. Ở mức độ thu hẹp hơn là trang web (nặng về văn học văn nghệ) của nhà văn T.Vấn, mà chủ biên cũng là người đã một thời sống chung với nhiều tác giả có những bản tù ca sáng tác trong tù. Anh đã viết một bài giới thiệu rất hay về ý nghĩa và sự tồn tại của những bản tù ca trong thời xã hội nhiễu nhương nơi có người tù trong có kẻ tù ngoài cùng đề xuất một việc làm nhằm thu góp các bản tù ca đã được sáng tác (chỉ ở trong trại) mà số lượng của nó không phải là nhỏ, nhưng bị mai một vì tác giả đã chết hoặc chỉ coi như kỷ vật cho riêng mình.

Cũng nhờ anh mà tôi được nghe lại với niềm xúc cảm khó tả về một bản nhạc mà anh em chúng tôi ở hai trại Nam hà và Vĩnh Phú đã nghe đi nghe lại nhiều lần, và được kể là một trong những bài hát của một người viết nhạc không chuyên nhưng để lại ấn tượng ray rứt, tiếc nuối cho những người một thời xếp bút nghiên bước vào quân trường theo tiếng gọi của núi sông. Tôi muốn nhắc đến bản Quân Trường Xưa và tác giả của nó là đại úy Vũ Cao Hiến, một cựu sinh viên trường Võ Bị Quốc Gia, một người tù cải tạo tôi đã có dịp chung phòng chung trại, nhưng nay thì cả người lẫn tên đã trở thành tượng đài thuyền nhân trên biển trong một chuyến vượt biên tìm tự do sau khi anh xuất trại vào giữa thập niên 80.


Trước khi đi vào bản nhạc tôi muốn có đôi dòng về anh. Dù thời gian đã trên ba thập niên tôi vẫn nhớ người sĩ quan có khuôn mặt rất thư sinh trạc tuổi 30, dáng người cân đối, giọng nói đủ nghe, mang âm sắc của người trai Hà nội, anh cũng hay giao tiếp với bạn bè nhưng thường sống nhiều bằng nội tâm, và trong tâm tư hình như có điều gì ức ẩn. Cứ nhìn bề ngoài khó ai đoán nổi anh lại là người lính hiện dịch, chọn binh nghiệp làm hướng đi, sẵn sàng một đời sống chết cho quê hương, giữ trọn danh dự và trách nhiệm vì màu cờ sắc áo. Hình như anh chưa có vợ, nhưng tôi biết chắc anh có người yêu vì bản thân anh cũng là người đáng yêu một phần do cái tài biết đàn biết hát của anh. Tình cờ trạì tôi ở có một chương trình chuẩn bị văn nghệ Tết cho tù nên anh được chuyển về đội của T.Vấn và anh em chúng tôi, qua đấy tôi mới biết bài hát Quân trường xưa tác giả là anh.

Nói về bài hát nó hay ở chỗ vừa biểu lộ tâm tư của chính mình nhớ về những kỷ niệm một thời nơi quân trường cũ, đồng thời nói hộ nhiều người nỗi bức tử của những người lính qui hàng trong tư thế thua cuộc của một đạo quân một thời oanh liệt. Bài hát với ca từ tựa như một bài thơ, một bài thơ phổ nhạc, lời lẽ mộc mạc nhưng tha thiết, âm điệu réo rắt nhưng bồi hồi, pha nỗi tức tưởi của những người lính được đào tạo để chiến đấu chứ không phải để qui hàng khi đất nước lâm nguy. Bối cảnh là quân trường võ khoa Thủ Đức, với các điạ danh cụ thể từ đồi Tăng Nhơn phú, đến Chợ Nhỏ, xóm Tân Vạn…ghi đậm dấu chân của hàng chục ngàn sinh viên sĩ quan trừ bị trải qua năm tháng từ lức quân trường thành lập cho đến lúc tập thể tan hàng. Tất nhiên những ký ức quân trường thì dù xuất thân Đà Lạt hay Thủ Đức vẫn có một nét chung là những ngày huấn nhục, những đêm di hành, những đêm trên chòi gác giặc, những bài học chiến thuật, bài giảng binh thư, những giờ phép cuối tuần trở về phố thị, những phút thăm gặp người yêu, rồi ngày ra trường, ngày ra đơn vị luôn là những kỷ niệm vui buồn, lưu luyến khó quên trong tâm thức những người lính trẻ.

Trước khi khép lại bài viết tôi xin đan cử vài đoạn ca từ mà mấy ai không khỏi ngậm ngùi chua sót khi nghe đoạn mở đầu,

Đường vô Thủ Đức
Lối vào Chợ Nhỏ
Quân trường xưa, một thời dấu chân anh 
….
để rồi khi tàn cuộc chiến, cũng người sinh viên ấy,
Rồi tan cuộc chiến, tôi lại trở về
Quân trường xưa, ẩn hiện dưới cây đêm
Tôi nghe như tiếng, réo gọi từ đồi Tăng Nhơn
Nhớ không anh, bài chiến thuật ngày nào
Thuở học trò, thành chiến sĩ gió sương
Trong binh thư, dạy anh không hề nói
đến chuyện qui hàng
Người lính thua cuộc, buồn đau
Người lính thua cuộc, hờn căm…

Thú thật cứ mỗi lần nghe bài hát dù không xuất thân từ quân trường này nhưng lại mang tâm trạng của kẻ thua cuộc, tôi vẫn nổi da gà vì những nốt nhạc như khơi gợi niềm đau của những chứng nhân thời đại mà chính ông Võ Văn Kiệt trong những ngày cuối đời đã phải công nhận “có triệu người vui nhưng chục triệu người buồn.”

Đỗ Xuân Tê
(Tháng tư nhìn lại)

Ý kiến bạn đọc
13/05/201212:10:41
Khách
Tù ca
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
Đến giữa tháng 3 năm nay, hầu hết chúng ta đều thấy rõ, Donald Trump sẽ là ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng Hòa và Joe Biden là ứng cử viên tổng thống của Democrat. Ngoại trừ vấn đề đột ngột về sức khỏe hoặc tử vong, có lẽ sẽ không có thay đổi ngôi vị của hai ứng cử viên này. Hai lão ông suýt soát tuổi đời, cả hai bộ não đang đà thối hóa, cả hai khả năng quyết định đều đáng nghi ngờ. Hoa Kỳ nổi tiếng là đất nước của những người trẻ, đang phải chọn lựa một trong hai lão ông làm người lãnh đạo, chẳng phải là điều thiếu phù hợp hay sao? Trong lẽ bình thường để bù đắp sức nặng của tuổi tác, con đường đua tranh vào Tòa Bạch Ốc, cần phải có hai vị ứng cử viên phó tổng thống trẻ tuổi, được đa số ủng hộ, vì cơ hội khá lớn phải thay thế tổng thống trong nhiệm kỳ có thể xảy ra. Hơn nữa, sẽ là ứng cử viên tổng thống sau khi lão ông hết thời hạn bốn năm. Vị trí và vai trò của nhân vật phó này sẽ vô cùng quan trọng trong lần tranh cử 2024.
Không phải “học” mà là bắt, là tóm đầu, là tống cổ vào nhà giam: khi cân bằng quyền lực ở Hà Nội xáo trộn với tiền chấn rung chuyển tận Amsterdam thì cái khẩu hiệu quen thuộc của Vladimir Lenin ngày nào cũng phải được cập nhật. Không còn “Học, học nữa, học mãi” mà, táo tợn hơn, hệ thống quyền lực đang giỡn mặt Lenin: “Bắt, bắt nữa, bắt mãi”.
Câu chuyện kể từ xa xưa, rất xa xưa, là từ thời đức Phật còn tại thế: Có một người Bà La Môn rất giầu có và rất quyền thế, ông thích đi săn bắn thú vật trong rừng hay chim muông trên trời. Một hôm đó, ông bắn được một con thiên nga to đẹp đang bay vi vút trong bầu trời cao xanh bát ngát thăm thẳm trên kia. Con thiên nga vô cùng đẹp bị trúng đạn, rơi xuống đất, đau đớn giẫy và chết. Ông liền chạy tới lượm thành quả của ông và xách xác con thiên nga lộng lẫy về cho gia nhân làm thịt, làm một bữa nhậu, có lẽ.
Dù đã từ trần từ lâu, Võ Văn Kiệt vẫn được người đời nhắc đến do một câu nói khá cận nhân tình: “Nhiều sự kiện khi nhắc lại, có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn”. Tôi vốn tính hiếu chiến (và hiếu thắng) nên lại tâm đắc với ông T.T này bởi một câu nói khác: “Chúng tôi tự hào đã đánh thắng ba đế quốc to”. Dù chỉ ngắn gọn thế thôi nhưng cũng đủ cho người nghe hiểu rằng Việt Nam là một cường quốc, chứ “không phải dạng vừa” đâu đấy!
Lý do ông Thưởng, ngôi sao sáng mới 54 tuổi bị thanh trừng không được công khai. Tuy nhiên, theo báo cáo của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và các cơ quan chức năng, thì ông Võ Văn Thưởng “đã vi phạm Quy định về những điều đảng viên không được làm...
Cứ theo như lời của giáo sư Nguyễn Văn Lục thì T.T. Thích Trí Quang là tác giả của câu nói (“Cộng Sản nó giết mình hôm nay, mai nó mang vòng hoa đến phúng điếu!”) thượng dẫn. Tôi nghe mà bán tin bán nghi vì nếu sự thực đúng y như vậy thì hoa hòe ở Việt Nam phải trồng bao nhiêu mới đủ, hả Trời?
Đảng CSVN tự khoe là “ niềm tin hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc“của nhân dân, nhưng sau 94 năm có mặt trên đất nước, thực tế đã chứng minh đảng đã cướp mất tự do của dân tộc, và là lực cản của tiến bộ...
Khi Kim Dung gặp Ian Fleming cả hai đều hớn hở, tay bắt mặt mừng và hể hả mà rằng: “Chúng ta đã chia nhau độc giả của toàn thể thế giới”. Câu nói nghe tuy có hơi cường điệu (và hợm hĩnh) nhưng sự hỉ hả của họ không phải là không có lý do. Số lượng sách in và số tiền tác quyền hậu hĩ của hai ông, chắc chắn, vượt rất xa rất nhiều những cây viết lừng lẫy cùng thời. Ian Fleming đã qua đời vào năm 1964 nhưng James Bond vẫn sống mãi trong… sự nghiệp của giới làm phim và trong… lòng quần chúng. Tương tự, nhân vật trong chuyện kiếm hiệp của Kim Dung sẽ tiếp tục là những “chiếc bóng đậm màu” trong tâm tư của vô số con người, nhất là người Việt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.