Hôm nay,  

Lửa Nối Nhau Chẳng Tắt

1/12/201200:00:00(View: 9030)
Lửa Nối Nhau Chẳng Tắt

Nguyệt Quỳnh
Nhưng lửa của tình yêu khi tức giận
Sẽ ra tro mọi lồng cũi mọi ngai vàng
Và những tên bạo chúa khôn ngoan
Hết ảo tưởng thôi van xin chờ đợi
Lửa sẽ bừng lên tự soi sáng cho mình
(Mấy đoạn thơ về lửa-Lưu Quang Vũ)
Những câu thơ trên dường như diễn tả đúng nhất tâm tình và hình ảnh những ngọn đuốc sống của các nhà sư Tây Tạng. Người ta nghe thấy những tiếng hô dõng dạc của họ hoà vào trong ngọn lửa: “Tự do cho dân tộc Tây Tạng!”; “Trung Quốc hãy chấm dứt đàn áp dân Tây Tạng…” Ngọn lửa đầu tiên bùng lên là ngọn lửa của vị sư trẻ mới 21 tuổi.
Mặc đù đối với giáo lý phật giáo, sự sống của con người, của muôn vật đáng quí vô cùng. Sự tự thiêu hàng loạt của các nhà sư này chứng tỏ điều họ cần còn đáng quí hơn chính cả mạng sống của họ. Và như những câu thơ của Lưu Quang Vũ: “Phút đốt cháy là phút nảy mầm, con người trao lửa cho nhau, từ những lồng ngực tròn căng…” Tất cả đều còn rất trẻ, vị sư đầu tiên tự thiêu vào đầu tháng ba năm 2011. Kế đến tại tỉnh Tứ Xuyên, sư Tsewang Norbu 29 tuổi, với quyết tâm không để ai cứu chữa, vị sư này đã uống xăng rồi mới tẩm xăng bên ngoài và tự mình châm lửa đốt. Những cuộc tự thiêu như thế cứ tăng nhanh dần, người thứ chín là một ni cô mới tròn 20 tuổi tại thành phố Aba, người thứ 12 là sư Dawa Tsering 38 tuổi từ tu viện Ganzi. Đây là những hy sinh vô cùng cao quí nhưng cũng cho thấy sự vô cùng tuyệt vọng của những người bị trị dưới bàn tay đẫm máu từ Bắc Kinh, đặc biệt từ thời Hồ Cẩm Đào nắm chức Bí thư Tỉnh ủy Tây Tạng. Chính nhờ công “bình ổn” Tây Tạng đó mà họ Hồ được Đặng Tiểu Bình gọi về thủ đô để chuẩn bị cho lên ngôi “bình ổn” toàn nước Tàu.
Ngài Karmapa, vị sư cao cấp của Phật Giáo Tây Tạng, người thân cận với Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng: “Mỗi bản tin về tự thiêu từ Tây Tạng gửi ra làm tràn ngập tim tôi những đau đớn”. Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhà lãnh đạo tinh thần Tây Tạng cũng không tán đồng việc tự thiêu này. Ngài nói với đài BBC trong một cuộc phỏng vấn rằng những hành động như vậy đòi hỏi sự dũng cảm rất nhiều nhưng mang lại rất ít hiệu quả vì Trung Quốc càng đàn áp mạnh hơn. Ngài nói rằng chỉ có “dũng” sẽ không đủ và người Tây Tạng cần phải dùng “trí” nữa. Nhưng ngài cũng cho rằng dưới chính sách cai trị “diệt chủng văn hóa” khắc nghiệt của nhà cầm quyền Trung Quốc, người dân Tây Tạng đã phải dùng phương pháp này chỉ vì tuyệt vọng.
Nét đặc thù văn hoá của dân tộc hiền hoà này được thế giới biết đến qua những bức tranh cát tuyệt hảo Mandala. Các nhà sư Tây Tạng đã bỏ hàng giờ có khi lên đến hàng tuần để hoàn tất một bức tranh cát. Nhưng ngay sau khi hoàn thành, họ lại xoá sạch ngay những bức tranh ấy. Sự xoá sạch những công trình này để thuyết phục người xem về bản chất vô thường của muôn sự vật trên thế gian này, dù có sặc sỡ, hoành tráng đến đâu đi nữa. Các tín đồ phật giáo Tây Tạng tự coi bản thân họ là một Mandala, vạn vật, kể cả chính họ là một vị Phật tiềm năng. Sau khi xoá, cát trong tranh được gom lại đựng vào trong một cái bình và được mang đến một dòng sông. Họ đổ cát ấy xuống dòng sông để sông mang cát ra đại dương, mang đi khắp thế giới hầu mong mang lại hòa bình và sự hài hòa cho cả hành tinh con người.
Hàng loạt các vụ tự thiêu của những con người nhân ái ấy đã làm rung động trái tim thế giới. Thế nhưng Trung Quốc lại gọi những hành động này là một loại “khủng bố”. Trong khi đó, các trò man rợ của công an đối với dân chúng Tây Tạng, đặc biệt là đối với thân thể các ni cô trong ngục tù, lại được ca tụng là công trạng bình ổn xã hội.

(Cách hành xử ngược ngạo này làm người ta nhớ tới cảnh những kẻ bán nước tống người yêu nước vào “cơ sở giáo dục” tại Việt Nam hiện nay; hoặc cảnh những nhóm công an thường phục và đầu gấu khủng bố thật các giáo dân, thậm chí ném mìn vào nhà Nguyện, thì được khen thưởng và trả tiền, trong lúc các nhóm công an sắc phục đốt hàng tỷ đồng để thu hình tập trận phòng chống khủng bố tưởng tượng).
Cũng có người đặt câu hỏi: tại sao ở Tunisia chỉ một vụ tự thiêu đã khiến toàn dân đứng dậy, trong khi tại Tây Tạng đã có đến 12 vụ tự thiêu mà ngọn lửa cách mạng vẫn không bùng lên được? Sự kiện này có thể nói bắt nguồn từ hai lý do chính. Lý do thứ nhất là đất nước Tây Tạng còn bị công an Trung Quốc xiềng xích quá chặt. Và cùng với công an là con số dân chúng người Hán được đưa qua để thực hiện chính sách đồng hoá. Số dân Hán này hợp tác chặt chẽ với công an để bảo vệ quyền lợi của chính họ. Do đó, cần phải có những bước giữa để nong rộng bớt vòng xích hiện nay trước đã, qua các hành động bất bạo động. Lý do thứ hai, tuy cách thức tự thiêu, dù cao quí, vẫn rất khó thành công vì số đông người Tây Tạng không thể bắt chước được. Yếu tố số đông khó có thể đạt được qua cách thức này, trong khi các cuộc cách mạng thành công tại Á Rập đã chứng minh vũ khí chiến lược này để đối đầu với một chế độ độc tài. Người dân tay không cần những cách thức dễ hơn để kết thành số đông.
Chuyện Tây Tạng cũng nhắc dân tộc Việt về số phận tương lai của mình nếu tiếp tục con đường hiện tại. Ngày Việt Nam trở thành một Tây Tạng thứ hai không còn là một dự đoán. Tai họa ấy đang diễn ra trong tiệm tiến và hòa bình. Đây mới là thứ “diễn biến hòa bình” đúng nghĩa! Nhìn về lãnh thổ, Trung Quốc đã lấy gọn Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc và nhiều vùng đất dọc theo biên giới, chưa kể các vùng rừng cho không dưới danh nghĩa “cho mướn nửa thế kỷ”; Hoàng Sa, Trường Sa và cả vùng biển chung quanh 2 quần đảo này đã trở thành “sân sau” của Bắc Kinh. Bên cạnh đó, mượn tiếng khai thác bôxít tại Tây Nguyên họ đã đưa hàng ngàn người Trung Quốc lên “nóc nhà của Đông Dương”. Hàng trăm các hãng thầu Trung Quốc với hàng trăm ngàn người Hoa lập các khu riêng với bảng hiệu, tiền tệ mua bán, và sinh hoạt như đang sống tại Tàu. Thế vẫn chưa đủ, lãnh đạo Hà Nội còn cho xây hẳn những vùng chuyên biệt của người Hoa trên khắp các tỉnh, từ Nam chí Bắc. Hình ảnh lá cờ sáu sao trên tay các em bé Việt Nam khi đón Tập Cận Bình là hình tượng rõ nét nhất về một đất nước Việt Nam tương lai mà Bắc Kinh muốn nhìn thấy và Hà Nội đã vâng chịu.
Cái vòng kim cô của Trung Quốc đã nằm sẵn trên đầu nhưng kẻ lãnh đạo đất nước Việt Nam. Những ngày cuối năm, bản tin về các bản án tù dành cho người yêu nước cứ dồn dập, các thanh niên công giáo đã bị bắt cóc và đang bị bắt cóc mỗi ngày. Muốn hay không muốn thì bóng đêm đen tối của đất nước cũng đang đến gần. Điều khác thường xảy ra chỉ có thể được quyết định bằng chính sự dũng cảm của dân tộc Việt Nam. Chúng ta có đem được một mùa xuân đích thực cho quê mẹ như dân tộc Tunisia, Ai Cập hay không là chọn lựa của chính chúng ta. Và phương thức đấu tranh xem ra khả thi và hữu hiệu nhất ở giai đoạn này vẫn là phương pháp đấu tranh bất bạo động. Đã có rất nhiều dân tộc chọn phương thức đấu tranh này, đặc biệt trong suốt nửa thế kỷ qua, và đã thành công.
Những ngọn lửa tự thiêu ở Tây Tạng làm tôi chợt nhớ đến Lưu Quang Vũ. Anh là một nhà thơ, nhà viết kịch tài hoa. Anh đã thắp lên ngọn lửa của chính mình ngay từ thập niên tám mươi của thế kỷ trước. Tôi yêu vô cùng ngọn lửa của Lưu Quang Vũ — ngọn lửa không phải được đốt lên từ thân xác mà từ hành động. Ngọn lửa đó dường như đã được chuyển trao từ bao thế hệ cha ông:
“Nhân dân có gì giống lửa phải không anh.
Gió bão ngàn đời vẫn nối nhau chẳng tắt…”

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tây Bắc hay Tây Nguyên thì cũng chừng đó vấn đề thôi: đất đai, tôn giáo, chủng tộc… Cả ba đều bị nhũng nhiễu, lũng đoạn tới cùng, và bị áp chế dã man tàn bạo. Ở đâu giới quan chức cũng đều được dung dưỡng, bao che để tiếp tục lộng quyền (thay vì xét sử) nên bi kịch của Tây Nguyên (nói riêng) và Cao Nguyên (nói chung) e sẽ còn dài, nếu chế độ toàn trị hiện hành vẫn còn tồn tại...
Bữa rồi, nhà thơ Inra Sara tâm sự: “Non 30 năm sống đất Sài Gòn, tôi gặp vô số người được cho là thành công, thuộc nhiều ngành nghề, đủ lứa tuổi, thành phần. Lạ, nhìn sâu vào mắt họ, cứ ẩn hiện sự bất an, lo âu.” “Bất an” có lẽ không chỉ là tâm trạng của người Sài Gòn mà dường như là tâm cảm chung của toàn dân Việt – không phân biệt chủng tộc, giới tính hay giai cấp nào ráo trọi – nhất là những kẻ sắp từ giã cõi trần. Di Cảo của Chế Lan Viên và di bút (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của Nguyễn Khải, theo nhận xét của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, chỉ là những tác phẩm “cốt để xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng).”
Tập Cận Bình tin rằng lịch sử đang dịch chuyển theo hướng có lợi cho mình. Trong chuyến thăm Vladimir Putin tại Matxcơva vào tháng 3 năm ngoái, nhà lãnh đạo Trung Quốc nói với Tổng thống Nga rằng “Ngay lúc này, chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi chưa từng thấy trong 100 năm qua, và chúng ta đang cùng nhau thúc đẩy sự thay đổi ấy.”
Sau 20 năm chiêu dụ Kiều bào về giúp nước không thành công, đảng CSVN lại tung ta Dự án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” vào dịp Tết Nguyên Đán Giáp Thìn 2024. Đây là lần thứ tư, từ khi có Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004, một Quyết định nhằm mưu tìm đầu tư, hợp tác khoa học, kỹ thuật và tổ chức các Hội, Đoàn người Việt ở nước ngoài, đặt dưới quyền lãnh đạo của đảng CSVN được tung ra...
Khi số lượng di dân vượt biên bất hợp pháp qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico tăng cao kỷ lục, câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Làm thế nào mà Hoa Kỳ lại rơi vào tình trạng này, và Hoa Kỳ có thể học hỏi những gì từ cách các quốc gia khác ứng phó với các vấn đề an ninh biên giới và nhập cư. Chào đón công dân nước ngoài đến với đất nước của mình là một việc khá quan trọng để giúp cải thiện tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, nguồn cung ứng lao động và đa dạng văn hóa. Nhưng những di dân vào và ở lại Hoa Kỳ mà không có thị thực hoặc giấy tờ hợp lệ có thể gây ra nhiều vấn đề – cho chính bản thân họ và cho cả chính quyền địa phương bởi tình trạng quá tải không thể kịp thời giải quyết các trường hợp xin tị nạn tại tòa án nhập cư, hoặc cung cấp nơi ở tạm thời và các nhu cầu cơ bản khác. Mà tình trạng này hiện đang xảy ra ở rất nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Trên vai những pho tượng trắng trong vườn Lục Xâm Bảo, lá vàng đã bắt đầu rơi lất phất. Mùa Thu Paris thật lãng mạn. Henry Kissinger đi dạo quanh một hồ nhỏ ở ngoại ô gần Rambouillet. Nơi đây từng cặp tình nhân đang nắm tay nhau bên những cành cây la đà bóng hồ. Ông thấy lòng mình nao nao (melancholic) vì sắp tới phiên họp quan trọng nhất với ông Lê Đức Thọ.
Tôi nghe nhiều người tỏ ý bi quan về hiện cảnh cũng như tương lai (đen tối) của Việt Nam. Dân tộc nào, số phận đó. Một đất nước có những người viết sử và làm luật (cỡ) như ông Dương Trung Quốc thì… đen là phải!
Việt Nam bước vào năm Giáp Thìn 2024 với gánh nặng tham nhũng và một đội ngũ “không nhỏ” cán bộ, đảng viên suy thoái đạo đức lối sống. Đó là cảnh báo của người đứng đầu đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng, trong cuộc phỏng vấn đầu năm của Thông Tấn Xã Việt Nam...
Từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Triết gia Mạnh Tử (372-289 BC) của Trung Hoa đã nói rằng, “Dân là quý, thứ đến đất nước, rồi tới vua.” Điều đáng nói là Mạnh Tử là người đi theo học thuyết của Nho Gia vốn chủ trương vua là con ông Trời (Thiên tử) được sai xuống nhân gian để trị quốc an dân, vậy mà cũng không thể phủ nhận vai trò quan trọng, nếu không muốn nói là tối quan trọng của người dân. Thời hiện đại, công pháp quốc tế đã nêu ba yếu tố chính hình thành một quốc gia: người dân, lãnh thổ và chính quyền. Trong đó, thật ra người dân chính là yếu tố then chốt quyết định. Lãnh thổ nếu không có dân ở, không có người quản trị thì không phải là đất nước của một dân tộc. Chính quyền từ người dân mà ra, bởi vì trước khi một người ra nắm quyền cai trị đất nước thì người đó phải là một người dân của đất nước ấy. Hơn nữa, sự thịnh suy của một quốc gia nằm trong tay người dân.
“Phản động lực” mà người Đài Loan thể hiện trong cuộc bầu cử tổng thống vừa rồi khiến tôi, sau những suy nghĩ miên man về chuyện nước non, lại quay về với bài học yêu nước của thời tiểu học với câu hỏi khó, khiến nhiều học trò gác bút: “Em hãy tìm từ phản nghĩa với ‘tôn đại’.” Trung Quốc càng hung hăng đe dọa bao nhiêu, Đài Loan càng quật cường ngạo nghễ bấy nhiêu. Mà nếu Bắc Kinh ngu ngơ hay vờ vịt không biết gì đến định luật này thì, thầy nào tớ đó, Hà Nội cũng mù tịt hay giả bộ tương tự. Họặc mù tịt như thể đã hoàn toàn miễn dịch trước luật này; hoặc đóng kịch như thể không hề sống trong không gian ba chiều bình thường mà là một môi trường nào đó thiêu thiếu, cơ hồ chỉ… hai chiều rưỡi.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.