Hôm nay,  

Linda Lê: Cuộc Đời và Tác Phẩm

11/01/201200:00:00(Xem: 10311)

Linda Lê: Cuộc Đời và Tác Phẩm

Đào Như 

Có phải chăng quá sớm để nói về ‘ Đời và Tác Phẩm Cuộc ’của nhà văn nữ gốc Việt của nước Pháp, Linda Lê. Cô đang ở tuổi ngoại tứ tuần, đang trong dòng triều cương sáng tác, còn nhiều chuyển hóa, còn nhiều bước đi mới khám phá chính mình và thế giới, còn nhiều sáng tạo cống hiến cho đời… Như vậy “Cuộc Đời và Tác phẩm”ở đây xin được hiểu như là cuộc đời và tác phẩm của Linda Lê trong quá khứ, trước năm 2011. 

Báo Libération có bài phác họa chân dung của Linda Lê tác giả của nhiều tiểu thuyết viết bằng tiếng Pháp và nhận được nhiều giải văn chương có uy tín trên văn đàn Pháp: Les Trois Parques- (Ba Số Phận)- Colomnie (Vu Khống)- Autre Jeux avec le feu-( Lại Chơi Với Lửa)… Theo báo Liberation: Cá tính của Linda thích cô độc, nhất định từ chối không muốn có con. Trong tác phẩm của Linda: Hình ảnh của một xứ sở cấm kỵ xa xưa, một người cha bị bỏ rơi, một người mẹ khuôn phép hay một người tình hờ hửng. Có những câu chuyện huyễn hoặc siêu thực như trong các tác phẩm của Shakespeare, hay hàm chứa hoang tưởng, ảo ảnh và hội chứng trầm cảm. 

Cuộc đời của Linda Lê là một chuổi dài của hạnh phúc đan xen với đau khổ, của tin yêu trộn lẫn với giận hờn, giữa những phút giây của thiên đường hôm qua và địa ngục hôm nay. Linda Lê sanh tại thành phố ĐàLạt, sương mù, lãng mạn và tình tự, năm 1963. Mẹ của Linda, một phụ nữ Việtnam thuộc tầng lớp cao, bẩm sinh quốc tịch Pháp. Cha của Linda là một người Việt thuộc tầng lớp xã hội thắp hơn mẹ, mặc dầu ông là một kỷ sư đương thời. Năm 1968, chạy giặc Mậu Thân từ Đalạt xuống Saigòn. Trên đường chạy nạn, lúc ấy Linda mới có 5 tuổi đã nhìn thấy những xác chết của trẻ thơ bên đường vì bom đạn chiến tranh. Hình ảnh đau thương của đất nước khắc sâu vào tâm trí cô mãi mãi sau này. Có lần Linda Lê đã phải thốt lên trên một trang viết: từ đó tôi có cảm tưởng trong tôi luôn luôn có một xác em bé đang chết…ViệtNam, quê hương tôi, giờ này sao như xác chết của một trẻ thơ- J’ai l’impression de porter en moi un corps mort. C’est surement, le VietNam que je porte comme un enfant mort. Thật là một định mệnh nghiệt ngã, và tuyệt vời, vận nước nổi trôi đã gắn liền với số mệnh, thân phận của người con gái với một tâm hồn nhạy cảm này quá sớm. Nhưng đó cũng là nguồn cảm xúc dâng tràn mỗi khi cô viết về người cha của cô bị bỏ quên ở lại cùng quê hương ViệtNam. 

Chạy giặc từ Đalạt vào Saigòn, theo truyền thống gia đình bên ngoại, Linda Lê theo học tại các trường Pháp. Chính ở Saigòn năm 1969, Linda Lê phát hiện cuộc sống tình cảm của cô có gì bất ổn. Những nguyên nhân thời cuộc bên ngoài làm sự quan hệ giữa cha và mẹ của Linda trở nên lỏng lẻo và tồi tệ. Linda Lê lúc đó đã sớm thấy mình bị rơi từ thiên đàn Đalạt xuống tận hố thẩm của địa ngục Saigòn. 

Rồi chuyện gì phải đến đã đến: Hai năm sau biến cố 30-4-75, Linda cùng mẹ và ba chị em gái di cư sang Pháp năm 1977. Ở Pháp cũng như ở Sàigòn, Linda Lê vùi mình trong văn chương, nghiền ngẫm tư tưởng các văn hào và triết gia Pháp. Phải chăng đó là là một đam mê thiên phú? Hay đó chỉ là cuộc chạy trốn chính mình - ego escape - hầu để quên đi quá khứ của mình ở đó sừng sửng hình ảnh của một người cha bị phản bội tàn tệ, bị bỏ quên cùng một quê hương ViệtNam cấm kị không được nói đến. 

Năm 1981 Linda Lê tốt nghiệp lớp 12 tại trường Trung học thời danh Henri IV ở Paris. Năm sau đó, Linda được nhận vào học văn chương tại đại học Sorbone. Tài năng văn chương của Linda Lê được phát hiện rất sớm từ lúc cô còn tuổi vị thành niên, cô đã được sự hâm mộ và dẫn dắt của các vị giáo sư ở ngay bậc Trung học. Chính những vị giáo sư này đã đưa Linda vào đại học Sorbone. Những năm của thập niên 1980, những tác phẩm của Linda Lê đi theo một tiến trình căn bản và vậm vở: Từ ‘Un si tendre vampire’- (Về một con dơi ác độc triều mến) -1985-đến ‘Les Évangiles du Crime’-(Phúc âm của Tội ác)- 1992. Nội dung của “Les Évangiles du Crime”, cho chúng ta thấy thấp thoáng ẩn hiện về cái chết và ý nghĩ về một sự tự vận của Linda Lê từ thuở ấy. Cùng trong thời khoản này, Linda Lê cũng cho ra đời những tác phẩm khác được coi như là thứ yếu: Fuir (1988) Solo (1989)…vì phần nhiều những tác phẩm này không mang được những dấu ấn gì đáng ghi nhớ trong văn nghiệp của Linda Lê sau này. 

Năm 1995 là năm định mệnh giáng xuống đời cô những tai nạn đau xót ngất lịm hồn người. Đó là lúc cô được tin người cha của cô vừa qua đời tại Saigòn sau cơn đột quị trong lúc ông sửa soạn lên đường sang Pháp để tìm lại thăm cô và gia đình. Người cha vô vàn thương yêu ấy trong gần suốt 20 năm qua, cha con không gặp lại nhau dù cho chỉ một lần. Tuy thế, hai cha con không ngừng thư từ liên lạc chặt chẽ với nhau, có những cảm nhận về hoàn cảnh và thân phận của nhau và những tin yêu sâu sắc. Liền sau đó Linda Lê quyết định về ViệtNam để tiển đưa người cha mình đến nơi an nghỉ cuối cùng và cũng để thăm lại quê hương. 

Với một nội tâm đầy xúc động và phẫn uất dường ấy làm sao Linda Lê chịu đựng nổi những nỗi đau đớn sau cái chết nghiệt ngã của người cha. Sau ngày trở lại Paris, Linda Lê rơi vào thế giới ảo giác, vây hãm bởi những mặc cảm tội lỗi, ý nghĩ về một sự tự tử - homicidal, suicidal ideation. Đối với Linda Lê, cái chết của người cha của cô còn có ý nghĩa cái chết của một thần tượng đời cô, người đã thông hiểu được nội tâm của cô. Sự ra đi của người để lại cho Linda Lê một thế giới trống rỗng không có niềm tin-un monde sans dieu. Sau đó Linda Lê đã phải nhập viện bịnh tâm thần. Đó là khoản thời gian hai tập truyện Voix -Tiếng nói -và Lettre Morte- Thư chết…Tất cả hai tác phẩm này đều miêu tả sự khổ lụy tận cùng của Linda khi nghĩ về người cha xấu số bị ruồng bỏ và chết với nỗi oan khiên khôn nguôi. Linda tin rằng trong lòng người cha luôn luôn có hình ảnh của cô cũng như tiếng nói của người vẫn còn vang vọng đâu đây bên cô. Cũng như hình ảnh của những bức thư chết của người cũng thoáng hiện về với những dòng chữ còn xanh màu mực… 

Một thời gian sau đó Linda Lê xuất viện và dòng đời cứ tiếp tục trôi chảy thầm lặng. Linda Lê tiếp tục viết với những dằn vặt: “Les Trois Parques’ năm 1997 và “Autre Jeux Avec le Feu” (Lại Chơi Với Lửa)-năm 2002. Năm 2003 Linda Lê thực hiện Personne-(Không Còn Ai) nói lên sự trống vánh, cuộc đời chan chứa cô đơn của người con gái vừa đúng bốn mươi, không còn cha, không còn quê hương, không chồng, không con… 

Với một ý nghĩ thật là ngộ nghĩnh, Linda Lê cho hay cô đang chuẩn bị xuất bản một bức thư gửi cho đứa con mà Linda Lê đã và sẻ không bao giờ có. Từ năm 15 tuổi, cô đã chia sẽ ý nghĩ không muốn có con với người bạn trai của mình: Cô sợ mang thai, sợ cho con bú, vì ngại rằng từ bầu vú của cô sẽ tiết ra tia sữa đắng, truyền nỗi cô đơn của mình cho đứa con vô tội. Như vậy có con không những không khỏa lấp được nỗi buồn mà còn làm cho cô thêm mặc cảm tội lỗi …Trong những năm gần đây, Linda Lê cũng có những bạn trai thành khẩn chia sẻ với cô mong cô có con với lý lẽ khi Linda có con, ngoài ý nghĩ mình là người đàn bà, Linda còn là một bà mẹ yêu thương bảo vệ nuôi nấng con, có con sẽ mang lại cho cô hạnh phúc, niềm hy vọng về tương lai, tất cả sẽ làm cho cô thấy thanh thản, dịu dàng. Nhưng Linda Lê đã đáp lại bằng cuộc sống lứa đôi không nhất thiết phải có con mới tồn tại. 

Cũng như trong cuộc đời lứa đôi tình cảm, Linda Lê đã chọn một chỗ đứng cho mình trong dòng văn học của Pháp đặc thù Linda Lê, thóat ra ngoài mẫu mực giềng mối của của Simone De Beauvoir, một feminist Existentialist- Marguerite Yourcenar, tác giả của những đầu sách thời danh: Alexis, Memoires d’Hadrien, hay Virginia Woolf, nhà văn nữ của vương quốc Anh, tác giả của Mrs Dolloway, Orlando… Nhưng chưa bao giờ Linda Lê cảm thấy cô đơn trong dòng văn học Pháp hiện tại. Trái lại cô được các giới trí thức và báo chí văn học Pháp tích cực chia sẻ với cô. Tác phẩm của Linda Lê, chẳng những được trọng vọng tại Pháp, được nhiều giải văn học tầm cỡ của Pháp, mà còn được dịch sang Anh ngữ, Đức ngữ… 

Hôm nay, đầu năm dương lịch 2012, ở tuổi 49 Linda Lê nghĩ gì về thân phận con người trong chiến tranh và sau chiến tranh và nhất là thân phận của người di tản tị nạn chiến tranh, sống lưu vong cùng khắp thế giới hơn 35 năm qua. Chúng ta và Linda Lê có chung một vùng đất đứng, chung một tâm trạng: Tư Cố Hương, nhớ về quá khứ, quê hương và những người thân yêu đang còn hay đã khuất. Cám ơn Linda Lê đã thể hiện tuyệt vời tâm hồn và suy tư của người Việt tị nạn. Hy vọng, trong tương lai gần Linda Lê sẽ phản ảnh nhiều hơn nữa lên văn đàn nước Pháp và thế giới niềm đau thống thiết của cộng đồng ViệtNam, của cộng đồng nhân loại vì chiến tranh. Nghĩ cho cùng, trường hợp của Linda Lê đặc thù văn học nghệ thuật- hiện tượng thụ tinh chéo- cross fertilization- Linda Lê mượn ngôn ngữ xứ người, ngôn ngữ Pháp, để miêu tả nội tâm của chính mình, của cộng đồng Việtnam khi nghĩ về hậu quả và hệ lụy của chiến tranh. Phải chăng Linda Lê chỉ là nạn nhân của Hội Chứng Hậu Chiến-Post Traumatic-Stress-Disorders Syndromes- cũng như hàng triệu người Việt khác đang sống trong nước hay đang sống lưu vong trên cùng khắp 92 lãnh thổ quốc gia trên thế giới./. 

Oak park, Illinois-USA 

thetrongdao2000@yahoo.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Rồi vào ngày 12/12/2023, tức chỉ sau ba tháng, Việt Nam lại long trọng tiếp đón Chủ Tịch Tập Cận Bình và nói rằng hợp tác và hữu nghị với Trung Quốc là lựa chọn chiến lược của Việt Nam...
Chỉ ba tháng sau khi Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ lên cấp cao nhất trong hệ thống phân cấp ngoại giao trong chuyến thăm của Tổng thống Biden, người ta thấy Chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc đã trở thành nhà lãnh đạo thế giới mới nhất tăng cường quan hệ với Việt Nam với chuyến thăm Hà Nội trong tuần này...
Chuyến thăm Việt Nam hai ngày của Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước Cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình đã để lại nhiều hệ lụy cho nhân dân Việt Nam hơn bao giờ hết. Bằng chứng này được thể hiện trong Tuyên bố chung ngày 13/12/2023 theo đó họ Tập thay quan điểm “cộng đồng chung vận mệnh” bằng “xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai” cho hai nước...
Sự ra đi của nhà tư tưởng và thực hành xuất sắc về chính sách đối ngoại của Mỹ đánh dấu một kỷ nguyên kết thúc. Trong suốt sự nghiệp lâu dài và có ảnh hưởng phi thường của mình, Henry Kissinger đã xây dựng một di sản mà người Mỹ sẽ khôn ngoan chú ý trong kỷ nguyên mới của nền chính trị cường quốc và sự xáo trộn trong toàn cầu. Thật khó để tưởng tượng rằng thế giới mà không có Henry Kissinger, không chỉ đơn giản vì ông sống đến 100 tuổi, mà vì ông chiếm một vị trí có ảnh hưởng và đôi khi chế ngự trong chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của Mỹ trong hơn nửa thế kỷ.
“Tham nhũng kinh tế” ở Việt Nam đã trở thành “quốc nạn”, nhưng “tham nhũng quyền lực” do chính đảng viên gây ra để thu tóm quyền cai trị mới khiến Đảng lo sợ. Đó là nội dung đang được phổ biến học tập để đề phòng và bảo vệ chế độ do Ban Nội chính Trung ương công bố...
“Trong năm 2023 còn nhiều vấn đề đáng lo ngại, gây bất an cho xã hội. Các tội phạm trên các lĩnh vực tiếp tục gia tăng toàn quốc xảy ra 48.100 vụ phạm tội và trật tự xã hội tăng 18%.”
Việt Nam đang thương lượng mua chiến đấu cơ F-16 của Mỹ để tăng cường bảo vệ an ninh trước đe dọa ngày một lên cao của Trung Quốc ở Biển Đông. Tin này được truyền miệng ở Hoa Thịnh Đốn, tiếp theo sau chuyến thăm Việt Nam 2 ngày 10-11 tháng 9/2023 của Tổng thống Joe Biden. Tuy nhiên, các viên chức thẩm quyền của đôi bên không tiết lộ số lượng F-16 mà Việt Nam có thể mua với giá 30 triệu dollars một chiếc...
Số năm tháng tôi nằm trong tù chắc ít hơn thời gian mà nhà thơ Nguyễn Chí Thiện ngồi trong nhà mét (W.C) và có lẽ cũng chỉ bằng thời gian ngủ trưa của nhà văn Vũ Thư Hiên, ở trại Bất Bạt, Sơn Tây. Bởi vậy, sau khi đọc tác phẩm Hỏa Lò và Đêm Giữa Ban Ngày của hai ông (rồi đọc thêm Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, Thung Lũng Tử Thần của Vũ Ánh, và Trại Kiên Giam của Nguyễn Chí Thiệp) thì tôi tự hứa là không bao giờ viết lách gì vể chuyện nhà tù, trại tù hay người tù nào cả.
Càng gần đến Đại hội đảng toàn quốc khóa XIV (2026-2031), đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) càng ra sức kiên định 4 nguyên tắc được coi là “có ý nghĩa sống còn đối với chế độ.”
Trời mưa thì buồn. Trời nắng thì vui. Mưa nhiều quá gây lụt lội, trở thành thảm cảnh. Nắng quá độ gây khô hạn, cháy mùa màng, gây đói khổ. Gọi là thiên tai. Có nghĩa thảm họa do trời gây ra. Hoặc chữ “thiên” đại diện cho thiên nhiên. Nhưng gần đây, vấn nạn khí hậu biến đổi, gây ra nhiều “thiên tai” có thể gọi lại là “thiên nhân tai,” vì con người góp phần lớn tạo ra khốn khổ cho nhau. “Thiên nhân tai,” nghe lạ mà có đúng không? Nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu là hiệu ứng nhà kính. Một số loại khí trong bầu khí quyển bao quanh trái đất hoạt động hơi giống như gương kính trong nhà kính, giữ nhiệt của mặt trời và ngăn nó trở lại không gian, gây ra hiện tượng nóng lên cho toàn cầu. Nhiều loại khí nhà kính này xuất hiện một cách tự nhiên, nhưng các hoạt động của con người đang làm tăng nồng độ của một số loại khí này trong khí quyển, cụ thể là: Cacbon dioxit (CO2), khí mê-tan, nitơ oxit, khí florua
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.