Hôm nay,  

Vấn Nạn Quanh Sự Lập Quốc Của Người Palestines

01/10/201100:00:00(Xem: 3226)

Vấn Nạn Quanh Sự Lập Quốc Của Người Palestines

Trần Bình Nam

Tại Đại hội đồng Liên hiệp quốc, hôm Thứ Sáu 23 tháng 9, đầu Thu 2011, Chủ tịch chính quyền Palestine Mahmoud Abbas chính thức đệ nạp Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc đơn xin chấp thuận thành hình tân quốc Palestine.

Đơn xin thành lập quốc gia trên nguyên tắc chỉ là sự thi hành quyền “dân tộc tự quyết” như là một quyền căn bản trong sinh hoạt của cộng đồng thế giới. Thế nhưng nó đã được chờ đợi như một biến cố tại trụ sở Liên hiệp quốc ở New York.

18 năm đã trôi qua kể từ ngày 13/9/1993 khi Tổ chức Giải Phóng Palestine (PLO) và Do Thái ký bản đồng thuận Oslo (Oslo Agreement hay Declaration of Principles – DOP) qua đó Do Thái giao hai vùng đất Tây ngạn (sông Jordan) gọi là West Bank và Gaza cho một thực thể chính quyền người Palestine (Palestine Authority - PA), đổi lại PA công nhận quyền tồn tại của nước Do Thái. Các vấn đề gai góc như: quy chế thành phố Jerusalem, vấn đề người tị nạn Palestine (do trận chiến tranh 1948) trở về đâu, vấn đề các khu định cư của Do Thái xây dựng trên đất Palestine sau cuộc chiến tranh 1967 sẽ được hai bên thương thuyết với nhau trước khi Do Thái công nhận Palestine là một quốc gia có chủ quyền. 

Bản thỏa ước Oslo mang đến một tia hy vọng cho vấn đề Do Thái – Palestine. Nhưng đồng sàng dị mộng. Các cuộc thương thuyết giữa hai bên không mang lại một kết quả cụ thể nào. Hình như người Do Thái xem sự thành hình một thực thể cầm quyền Palestine là đủ để thế giới thấy thiện chí của Do Thái. Thực tế vừa hạ bút ký bản DOP, thủ tướng Do Thái Yitzhak Rabin đã tuyên bố: “thành phố Jerusalem là thủ đô lâu đời và vĩnh viễn của dân tộc Do Thái. Lập trường của Do Thái là thành phố Jerusalem (không phân chia) sẽ ở dưới sự quản trị của chính phủ Do Thái trong đó mọi cư dân đều được hưởng quyền tự do tôn giáo.”

Dù cứng rắn như vậy ông Rabin vẫn bị thành phần quá khích ám sát, và sau đó các chính quyền Do Thái chần chừ không thi hành thỏa ước Oslo, và dùng thì giờ để lấn đất vùng West Bank bằng cách cho xây một bức tường ngăn cách dọc theo biên giới West Bank và Do Thái bọc các khu định cư của người Do Thái đã xây dựng trên đất West Bank thuộc PA.

Cuộc tranh chấp Do Thái – Palestine chỉ có thể giải quyết nếu Hoa Kỳ có thể cứng rắn với Do Thái. Nhưng Hoa Kỳ dù dưới chính quyền Cộng Hòa hay Dân Chủ đều không thể có chính sách cứng rắn với Do Thái. Chính sách ngoại giao này bắt nguồn từ năm 1956 khi đại tá Nasser quốc hữu hóa kênh đào Suez. Do Thái, sau khi tham khảo với Anh và Pháp đã đánh chiếm bán đảo Sinai tiến quân vào sát bờ tây kênh đào đe dọa sự lưu thông của thủy đạo quốc tế quan trọng này. Anh, Pháp lấy cớ chiếm kênh đào Suez. Tổng thống Eishenhower lo ngại Liên bang Xô viết bênh Nasser nhảy vào Trung đông nên dùng đòn bẩy tài chánh áp lực Anh rút quân (và Pháp rút theo) lui trả kênh đào lại cho Ai Cập. Biến cố này đánh dấu ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại Tây Âu và sự mất dần ảnh hưởng của đế quốc Anh.

Cuộc khủng hoảng Suez đã đẩy khối A Rập vào khối Liên xô và biến Do Thái thành đồng minh của Hoa Kỳ. Sự đồng minh phát sinh từ một nhu cầu chiến lược của chiến tranh lạnh trong thập niên 1960 đã dần dần trở thành một quan hệ Hoa Kỳ không thể gỡ ra được do áp lực chính trị nội bộ khi người Mỹ gốc Do Thái có khả năng thao túng quốc hội và truyền thông tại Hoa Kỳ.

Cộng đồng thế giới có cảm tình với người Palestine, nhưng các cuộc biểu quyết của Đại hội đồng Liên hiệp quốc chỉ có tính ghi nhận và khuyến cáo, Do Thái không cần tuân thủ. Chỉ có các quyết nghị của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc mới có hiệu lực của một đạo luật quốc tế, nhưng Hội đồng Bảo an không thể thông qua quyết nghị nào có tính ràng buộc Do Thái vì phiếu phủ quyết của Hoa Kỳ. Các chính phủ Cộng Hòa thường bênh vực Do Thái hơn các chính phủ Dân Chủ, nhưng không chính phủ Hoa Kỳ dù thuộc đảng nào có thể coi thường sức mạnh chính trị của người Do Thái để có một chính sách ngọai giao thuyết phục Do Thái đi đến một giải pháp hai nước Do Thái - Palestine sống hòa bình bên nhau . Khi ông Obama đắc cử tổng thống Hoa Kỳ, Palestine hy vọng ông Obama sẽ đề ra một chính sách công bình hơn đối với người Palestine, nhưng sớm nhận ra rằng đó chỉ là ảo tưởng. Tổng thống Obama ửng hộ sự hình thành một nước Palestine độc lập, có chủ quyền, thành viên của Liên hiệp quốc với biên giới Palestine trước cuộc chiến tranh 1967 – và thêm – hai bên sẽ đổi đất với nhau dựa vào thực tế tại chỗ. Nghĩa là nếu có một vùng đất vốn thuộc Palestine trước năm 1967 Do Thái đã “lỡ” chiếm và xây đựng vĩnh viễn thì Do Thái có thể thương thuyết với Palestine giữ đất đó và đổi lại cho Palestine một miếng đất thuộc Do Thái (trước năm 1967). Đề nghị có vẻ hợp lý, nhưng Do Thái không dễ đổi đất vì đặt an ninh lên trên mọi nhu cầu khác. Do Thái lý luận trước thế giới rằng một holocaust với 6 triệu người Do Thái bị giết đã quá đủ, họ cương quyết không để một việc như vậy tái diễn.

Lập trường của Do Thái là cứ thương thuyết với PA, đồng thời vẫn tiếp tục gặm nhắm dần đất của Palestine qua việc xây dựng các khu định cư mới trong vùng West Bank và xây thêm nhà cửa chung quanh thành phố Jerusalem. Một nhà báo Tây phương miêu tả cuộc thương thuyết về ranh giới đất giữa Do Thái và Palestine giống như hai anh em chia một chiếc bánh. Ông anh ỷ mạnh vừa ăn dần rìa chiếc bánh vừa nói với em “đừng lo, để anh chia công bình cho em”. Ông em Palestine không thể chấp nhận một sự chia chác như vậy.

Tiến triển của nỗ lực lập quốc của Palestine nhì nhằng như vậy 18 năm qua trước sự đãi bôi vì quyền lợi của các nước lớn, nhất là 5 ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc.

Dưới sự lãnh đạo của ông Yasser Arafat năm 1987 người Palestine lần đầu tiên nổi dậy (gọi là first intifanda) trước âm mưu lấn đất lộ liễu của Do Thái. Cuộc nổi đậy bất bạo động này được phối hợp đồng loạt tại 3 phần đất riêng biệt là West Bank, Gaza và Đông Jerusalem gồm chống thuế, đình công, đặt chướng ngại trên các trục giao thông. Hình ảnh của cuộc nổi dậy được thế giới chứng kiến là hình ảnh thanh thiếu niên Palestine dùng tay không, ná cao su, gạch đá chống lại lực lượng an ninh trang bị bằng súng đạn của Do Thái. Cuộc nổi dậy này chấm dứt năm 1993 với thỏa ước Oslo sau khi đã làm thiệt mạng 2,100 người Palestine, trong đó có 1000 người bị giết vì nghi là hợp tác với Do Thái, và 164 người Do Thái.

Cuộc nổi dậy thứ hai (second intifada) bùng nổ vào mùa Thu năm 2000 sau khi thủ tướng Ariel Sharon đi thăm khu Al-Haram Al-Sharif (gọi là Temple Mount ) do Do Thái kiểm soát tại Jerusalem. Người Palestine và người Do Thái đều xem Temple Mount là thánh địa của mình. Cuộc nổi dậy thứ hai bao gồm các hình thức phản kháng bạo động và bất bạo động, và chấm dứt sau khi chủ tịch Yasser Arafat qua đời năm 2004. Ông Mahmoud Abbas thay thế Arafat chủ trương chấm dứt bạo động và tìm giải pháp lập quốc qua thương thuyết khởi đầu bằng quyết định của thủ tướng Sharon rút quân và triệt hạ các khu định cư Do Thái trong vùng Gaza. Tổn thất nhân mạng trong cuộc nổi dậy thứ hai ước lượng 4.745 người Palestine và 1.053 người Do Thái.

Tư năm 2004 đến nay tình hình thương thuyết không có gì thay đổi. Tổng thống Obama có mang đến một chút hy vọng qua các phát họa mới nhưng vẫn không đi tới đâu trước thực tế chính trị tại Hoa Kỳ với sự kiểm soát truyền thông và khả năng vận động tại quốc hội (lobby) của người Mỹ gốc Do Thái .

Phát họa chính sách mới đối với vụ tranh chấp Do Thái – Palestine trong bài diễn văn đọc tại Cairo ngày 4/6/2009 tổng thống Obama nói: “… vấn đề Do Thái – Palestine chỉ có thể giải quyết qua công thức hai quốc gia công nhận nhau và cùng tồn tại bên cạnh nhau.” (The only resolution is for the aspirations of both sides to be met through two states, where Israelis and Palestinians each live in peace and security). Nhưng ông không làm gì để áp lực Do Thái ngưng các phát triển thêm các khu định cư trong vùng West Bank ngoài sự hứa hẹn “ … sẽ đích thân, kiên nhẫn và khéo léo để thực hiện …” (I intend to personally pursue this outcome with all the patience and dedication that the task requires).

Nhưng bản đồ chính trị Trung Đông thay đổi từ đầu năm 2011 sau các cuộc nổi dậy lật đổ các chế độ độc tài tại Tunisia, Ai Cập, Lybia và đang làm lung lay các chính quyền độc tài khác tại Syria, Yemen và một số tiểu quốc A Rập khác.

Sự ổn định (tiền 2011) tại Trung Đông qua trục Ai Cập, Do Thái và Thổ Nhĩ Kỳ dưới sự cầm chịch của Hoa Kỳ không còn nữa. Sau khi Hosni Mubarak từ chức quan hệ giữa Ai Cập và Do Thái trở nên nguôi lạnh, và sau khi Do Thái truy kích quân du kích Palestine qua biên giới làm thiệt mạng một số quân nhân Ai Cập thì sự xích mích giữa hai nước bộc phát bằng những cuộc biểu tình phản đối Do Thái trên đường phố Cairo. Ngày 10/9/2011 dân chúng bao vây đập phá tòa đại sứ Do Thái tại Cairo, chính quyền Ai Cập phải vất vã lắm mới cứu được 80 công chức Do Thái và thân nhân đưa ra khỏi Ai Cập. Trong khi đó quan hệ giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Do Thái vốn đã căng thẳng từ tháng 5/2010 khi Hải quân Do Thái tấn công tàu dân sự Thổ tiếp tế nhân đạo cho dân chúng Gaza giết chết 9 công dân Thổ trở nên căng thẳng hơn khi thủ tướng tướng Thổ Erdogan (Recep Tayyip) công khai khuyến khích và hỗ trợ quyết định của chủ tịch PA Mahmoud Abbas sẽ đưa đơn xin gia nhập Liên hiệp quốc vào dịp Đại hội đồng tháng 9 năm 2011.

Sáng kiến đưa đơn xin gia nhập Liên hiệp quốc của PA có từ năm 1999 lúc ông Arafat còn sống. Năm 1999 ông Yasser Arafat dự định đích thân dự đại hội đồng Liên hiệp quốc và nộp đơn gia nhập Liên hiệp quốc, nhưng Do Thái giam lỏng ông tại thủ đô Ramallah buộc ông bỏ ý định này . Sau khi ông Arafar qua đời tân chủ tịch Mahmoud Abbas tạm bỏ qua việc xin chính thức gia nhập Liên hiệp quốc trước áp lực của Do Thái và Hoa Kỳ chờ cơ hội.

Nay thời cơ đã tới. Trục Do Thái -Ai Câp –Thổ nhĩ Kỳ bể. Do Thái bị cô lập. Hoa Kỳ vẫn còn có thể phủ quyết, nhưng sẽ phải trả một giá rất đắc trước dư luận bất lợi trong thế giới A Rập .

Tại sao Do Thái và Hoa Kỳ lo ngại việc Palestine trở thành thành viên của Liên hiệp quốc qua quyết nghị của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc chứ không qua thương thuyết tay đôi với Do Thái" Nếu Palestine trở thành quốc gia thành viên Liên hiệp quốc điều này chứng tỏ nỗ lực lập quốc của người Palestine được sự yểm trợ của cộng đồng thế giới, và nước Palestine có quyền đưa các vụ lấn đất của Do Thái ra trước tòa án quốc tế. Do Thái và Hoa Kỳ nói họ lo ngại một cuộc nổi dậy thứ ba (third intifada) sẽ bùng nổ đưa đến chiến tranh và bất ổn nếu Hội đồng Bảo an không thông qua đòi hỏi của người Palestine.

Hai ngày trước khi chủ tịch Mahmoud Abbas đích thân đệ nạp đơn gia nhập, tổng thống Obama đọc diễn văn trước Đại hội Liên hiệp quốc nói rằng Hoa Kỳ sẽ bỏ phiếu phủ quyết. Và thành phần thân Do Thái tại quốc hội Hoa Kỳ cho biết sẽ vận động quốc hội cắt viện trợ cho chính quyền Palestine.

Chủ tịch Abbas biết rõ các sự de dọa này, nhưng ông không lùi bước. Thổ Nhỉ Kỳ hứa sẽ viện trợ thay Hoa Kỳ, và Saudi Arabia cho biết phiếu phủ quyết của Hoa Kỳ sẽ làm thay đổi “tình nghĩa” giữa Hoa Kỳ và khối A Rập tổng thống Obama đang vun xới.

Ông Mahmoud Abbas đã đi một nước cờ cao. Hoa Kỳ phủ quyết, đơn ông sẽ được đưa ra trước khóang đại Liên hiệp quốc và dễ dàng tranh thủ 2/3 quốc gia ủng hộ, trong đó có thể có cả phiếu cộng đồng Âu châu, Anh và Đức chấp nhận quy chế “quan sát viên” như quy chế hiện nay của Vatican.

Biểu quyết bác bỏ thỉnh nguyện của người Palestine sẽ đặt Do Thái và Hoa Kỳ bên lề trái của lương tâm thế giới và sẽ là yếu tố tích cực đưa Palestine đến vị trí một quốc gia có chủ quyền sống hòa bình trong cộng đồng thế giới trong một tương lai không xa.

Triển vọng chấm dứt cuộc tranh chấp Do Thái – Palestine không lúc nào sáng sủa bằng lúc này. “Cùng tất biến, biến tất thông”.

Trần Bình Nam

Sept. 30, 2011

binhnam@sbcglobal.net

www.tranbinhnam.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cận Tết năm Thìn, Marianne Brown (Guardian Weekly) có bài “Vietnam’s parents want a dragon son.” Trời! Tưởng gì, chớ cả Tầu lẫn Ta ai mà không muốn có con trai tuổi Rồng. Nhâm Thìn, tất nhiên, lại càng bảnh dữ nữa. Nam nhâm nữ quí thì sang mà lị. Theo tuviso.com: “Tuổi Nhâm Thìn có nhiều hy vọng tốt đẹp về vấn đề tình duyên và tương lai về cuộc sống, có phần tốt đẹp về tình cảm và tài lộc, vào trung vận và hậu vận thì được nhiều tốt đẹp về hạnh phúc, công danh có phần lên cao.”
Một quan điểm lạc quan đang dấy lên trong hàng ngũ Lãnh đạo đảng CSVN khi bước vào năm 2024, nhưng thực tế tiềm ẩn những khó khăn chưa lường trước được...
Nếu Donald Trump giành lại được Nhà Trắng vào tháng 11, năm nay có thể đánh dấu một bước ngoặt đối với quyền lực của Mỹ. Cuối cùng, nỗi sợ hãi về tình trạng suy tàn đã khiến cho người Mỹ bận tâm kể từ thời thuộc địa sẽ được biện minh. Hầu hết người Mỹ tin rằng, Hoa Kỳ trong tình trạng suy tàn, Donald Trump tuyên bố rằng ông có thể “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”. Nhưng tiền đề của Trump đơn giản là sai, và các biện pháp trị liệu được ông đề xuất đặt ra mối đe dọa lớn nhất đối với nước Mỹ.
Đảng CSVN hay nói “Trí thức là “nguyên khí của quốc gia”, làm hưng thịnh đất nước, rạng rỡ dân tộc*; “Trí thức là vốn liếng quý báu của Dân tộc”; hay “Thanh niên là rường cột của nước nhà” , nhưng tại sao nhiều người vẫn ngại đứng vào hàng ngũ đảng? Lý do vì đảng chỉ muốn gom Trí thức và Thanh niên “vào chung một rọ để nắm tóc”...
Tây Bắc hay Tây Nguyên thì cũng chừng đó vấn đề thôi: đất đai, tôn giáo, chủng tộc… Cả ba đều bị nhũng nhiễu, lũng đoạn tới cùng, và bị áp chế dã man tàn bạo. Ở đâu giới quan chức cũng đều được dung dưỡng, bao che để tiếp tục lộng quyền (thay vì xét sử) nên bi kịch của Tây Nguyên (nói riêng) và Cao Nguyên (nói chung) e sẽ còn dài, nếu chế độ toàn trị hiện hành vẫn còn tồn tại...
Bữa rồi, nhà thơ Inra Sara tâm sự: “Non 30 năm sống đất Sài Gòn, tôi gặp vô số người được cho là thành công, thuộc nhiều ngành nghề, đủ lứa tuổi, thành phần. Lạ, nhìn sâu vào mắt họ, cứ ẩn hiện sự bất an, lo âu.” “Bất an” có lẽ không chỉ là tâm trạng của người Sài Gòn mà dường như là tâm cảm chung của toàn dân Việt – không phân biệt chủng tộc, giới tính hay giai cấp nào ráo trọi – nhất là những kẻ sắp từ giã cõi trần. Di Cảo của Chế Lan Viên và di bút (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của Nguyễn Khải, theo nhận xét của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, chỉ là những tác phẩm “cốt để xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng).”
Tập Cận Bình tin rằng lịch sử đang dịch chuyển theo hướng có lợi cho mình. Trong chuyến thăm Vladimir Putin tại Matxcơva vào tháng 3 năm ngoái, nhà lãnh đạo Trung Quốc nói với Tổng thống Nga rằng “Ngay lúc này, chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi chưa từng thấy trong 100 năm qua, và chúng ta đang cùng nhau thúc đẩy sự thay đổi ấy.”
Sau 20 năm chiêu dụ Kiều bào về giúp nước không thành công, đảng CSVN lại tung ta Dự án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” vào dịp Tết Nguyên Đán Giáp Thìn 2024. Đây là lần thứ tư, từ khi có Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004, một Quyết định nhằm mưu tìm đầu tư, hợp tác khoa học, kỹ thuật và tổ chức các Hội, Đoàn người Việt ở nước ngoài, đặt dưới quyền lãnh đạo của đảng CSVN được tung ra...
Khi số lượng di dân vượt biên bất hợp pháp qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico tăng cao kỷ lục, câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Làm thế nào mà Hoa Kỳ lại rơi vào tình trạng này, và Hoa Kỳ có thể học hỏi những gì từ cách các quốc gia khác ứng phó với các vấn đề an ninh biên giới và nhập cư. Chào đón công dân nước ngoài đến với đất nước của mình là một việc khá quan trọng để giúp cải thiện tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, nguồn cung ứng lao động và đa dạng văn hóa. Nhưng những di dân vào và ở lại Hoa Kỳ mà không có thị thực hoặc giấy tờ hợp lệ có thể gây ra nhiều vấn đề – cho chính bản thân họ và cho cả chính quyền địa phương bởi tình trạng quá tải không thể kịp thời giải quyết các trường hợp xin tị nạn tại tòa án nhập cư, hoặc cung cấp nơi ở tạm thời và các nhu cầu cơ bản khác. Mà tình trạng này hiện đang xảy ra ở rất nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Trên vai những pho tượng trắng trong vườn Lục Xâm Bảo, lá vàng đã bắt đầu rơi lất phất. Mùa Thu Paris thật lãng mạn. Henry Kissinger đi dạo quanh một hồ nhỏ ở ngoại ô gần Rambouillet. Nơi đây từng cặp tình nhân đang nắm tay nhau bên những cành cây la đà bóng hồ. Ông thấy lòng mình nao nao (melancholic) vì sắp tới phiên họp quan trọng nhất với ông Lê Đức Thọ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.