Hôm nay,  

Dân Chủ Là Xu Thế, Dân Việt Cần Vượt Qua Sợ Hãi

3/5/201100:00:00(View: 6452)

Dân Chủ Là Xu Thế, Dân Việt Cần Vượt Qua Sợ Hãi

buivanphu_aicap_block8406-large-contentKhối 8406 là phong trào tranh đấu đòi tự do, dân chủ và nhân quyền cho VN. (Ảnh Bùi Văn Phú) 

Bùi Văn Phú

Đảng Cộng sản quả thực đang lo sợ một cuộc cách mạng ôn hoà có thể xảy ra tại Việt Nam do bởi những biến chuyển chính trị thế giới trong hơn hai thập niên qua cho thấy xu thế thời đại là dân chủ được thiết lập ở nhiều quốc gia, từ Đông Á qua Đông Âu, Liên Bang Sô Viết cách đây phần tư thế kỉ và mới đây là Bắc Phi và Trung Đông. Đó là “Cách mạng nhung”, “Cách mạng cam”, “Cách mạng hoa nhài” và sang đến Việt Nam, nếu có một cuộc cách mạng ôn hoà tương tự thì gọi đó là hoa mai hay hoa sen thì cũng là diễn biến hoà bình mà thế giới tự do ủng hộ và lãnh đạo Việt Nam lo sợ.

Thế giới ngày nay sẽ phản đối những chính quyền dùng bạo lực để đàn áp tiếng nói của dân. Như ở Lybia. Liên hiệp quốc, Liên hiệp châu Âu và Hoa Kỳ đã lên án và có những biện pháp trừng phạt chính quyền của Đại tá Moammar Gadhafi trước những vụ nổ súng của lực lượng an ninh, quân đội chính quyền vào đám đông dân chúng biểu tình.

Trong phần tư thế kỉ qua ít có cách mạng mang tính bạo động với nhiều người chết như các cuộc cách mạng trước. Những thay đổi chính trị ở Đông Âu xảy ra ôn hoà, ngược hẳn với những cuộc cách mạng của cộng sản hay quân phiệt giành quyền cai trị ở nhiều quốc gia. Vì thế thay đổi chính trị ở Đông Âu được gọi là “Cách mạng nhung”.

Tinh thần ôn hoà, bất bạo động đã là kim chỉ nam hành động cho nhiều cuộc nổi dậy của dân ở nhiều nước trong những thập niên qua.

Hình ảnh dân chúng Ai Cập xuống đường ở Thủ đô Cairo đòi xoá bỏ chế độ độc tài của Tổng thống Hosni Mubarak vào tháng 2.2011 thì giống như những gì đã xảy ra ở Thủ đô Manila, Philippines cách đây đúng 25 năm. Sức mạnh quần chúng đưa đến kết quả giống nhau là những chế độ độc tài không sớm thì muộn cũng bị người dân lật đổ mà không cần dùng bạo lực. Tổng thống Ferdinand Marcos của Philippinesđã phải ra đi. Tổng thống Mubarak cũng đã từ chức trước những đòi hỏi của dân Ai Cập.

Giữa Ai Cập và Philippinescó nhiều điểm tương đồng. Cả hai đều là đồng minh Hoa Kỳ nhưng hai quốc gia được cai trị bởi những nhà độc tài trong nhiều năm và có sự yểm trợ của các tổng thống Mỹ, cho đến khi ý dân được biểu hiện qua những cuộc xuống đường đòi tự do dân chủ.

Trong 30 năm, Tổng thống Hosni Mubarack cai trị Ai Cập bằng bàn tay sắt và đã bắt giam hoặc cho lưu vong những người đối lập. Tự do báo chí và phát biểu quan điểm chính trị bị bóp nghẹt. Bầu cử chỉ là hình thức để ông tiếp tục lãnh đạo. Tài sản quốc gia rơi vào túi riêng và gia đình ông.

Tổng thống Ferdinand Marcos của Philippinescai trị đất nước bằng sắc luật, nêu lí do an ninh quốc gia để đình chỉ việc thi hành hiến pháp và không tổ chức bầu cử để ông có thể làm tổng thống suốt đời. Ông ban hành tình trạng thiết quân luật từ năm 1972 đến 1981 lấy lí do có những đe doạ của lực lượng cộng sản Mao-ít. Những nhà đối lập, chỉ trích chính sách của ông bị tù hay phải sống lưu vong, nổi tiếng nhất là Thượng nghị sĩ Benigno Aquino. Năm 1983 ông Benigno từ Hoa Kỳ trở về thì bị ám sát chết tại cầu thang máy bay ở phi trường Manila.

Nhưng ba năm sau chính Tổng thống Marcos lại trở thành người lưu vong trên đất Mỹ, chấm dứt một giai đoạn Philippinesbị cai trị bởi một chế độ độc tài, mở ra một thời đại tự do dân chủ.

Với việc từ chức của Tổng thống Mubarak, Ai Cập rồi sẽ bước vào tiến trình dân chủ hoá. Những quyền căn bản sẽ được trả lại cho người dân, trong đó có tự do báo chí, phát biểu quan điểm, tham gia các tổ chức, đảng phái chính trị và được quyền tự do ứng cử và bầu cử, như đã xảy ra ở Á châu với Philippines vào năm 1986, theo sau là Đông Âu, Nam Hàn và Đài Loan. Người Philippines có văn hoá khác người Ai Cập, dân Nam Hàn có nếp sống khác dân Đông Âu, nhưng khát vọng tự do, dân chủ, nhân quyền thì giống nhau.

Và không chỉ ở những quốc gia có chế độ độc tài và được sự ủng hộ của Hoa Kỳ trong nhiều năm mới nổi lên những phong trào tranh đấu đòi tự do, dân chủ. Tunisiakhông phải là quốc gia thân với Hoa Kỳ, Lybia thù nghịch với Mỹ và ở hai quốc gia này người dân cũng nổi dậy đòi tự do dân chủ.

Với làn sóng “Cách mạng nhung” đưa đến sự sụp đổ của cộng sản Đông Âu vào cuối thập niên 1980, tại Việt Nam đầu thập niên 1990 đã có những tiếng nói đòi cải cách chính trị được gióng lên của Trần Xuân Bách, Phan Đình Diệu hay kiến nghị của công dân Bùi Tín được coi như quan điểm của tướng Võ Nguyên Giáp gửi về quê nhà từ quốc ngoại. Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng 6.1991 tưởng đã có một bước ngoặt lịch sử, nhưng phe giáo điều bảo thủ vẫn thắng thế và còn ảnh hưởng mạnh trong guồng máy cai trị tại Việt Nam cho đến hôm nay.

Lo sợ những diễn biến hoà bình như đã xảy ra ở Đông Âu trước đây hay ở Bắc Phi, Trung Đông trong những tuần qua, bộ máy công an Hà Nội đã bắt giam, theo dõi sinh hoạt của những người có quan điểm bất đồng, những nhà hoạt động dân chủ như Đoàn Viết Hoạt, Nguyễn Hộ, Đoàn Thanh Liêm, Tạ Bá Tòng trong những năm 1980; đến Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Đỗ Nam Hải, Lê Công Định, Nguyễn Hoàng Hải, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung gần đây.

Nổi tiếng nhất là bác sĩ Nguyễn Đan Quế, một người thường phát biểu quan điểm bất đồng với nhà nước và đòi tự do dân chủ cho Việt Namnên đã nhiều lần bị giam tù. Năm 1998 được nhà nước trả tự do dịp đặc xá mừng Quốc Khánh 2.9 và muốn tống xuất ông ra nước ngoài, nhưng bác sĩ Quế nhất quyết ở lại Việt Nam cho dù có bị công an thường xuyên theo dõi hay bị quản chế và có thể bị bắt giam trở lại bất cứ lúc nào.

Ông vừa đưa ra lời kêu gọi dân chúng xuống đường biểu tình đòi cơm áo, đòi việc làm, chống tham nhũng, đòi Đảng Cộng sản Việt Nam trả lại cho người dân những quyền tự do chính trị căn bản. Tức thì công an khám xét nhà, bắt giam ông và qui tội “âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân”. Trước áp lực của Hoa Kỳ, công an đã phải thả bác sĩ Nguyễn Đan Quế.

Từng thời đại, nhân loại nổi lên những cuộc cách mạng khác nhau, tựu trung đem lại cho nhân dân các nước những đòi hỏi căn bản, từ độc lập, tự quyết đến dân chủ tự do. Sau Thế chiến thứ Hai, vào thập niên 1960 phong trào tranh đấu giành độc lập bùng lên từ châu Phi sang đến châu Á. Cuối thập niên 1980 nổ ra những phong trào đòi tự do dân chủ ở Đông Á, Đông Âu và còn đang lan toả đến nhiều nơi trên thế giới như ở Bắc Phi và Trung Đông hiện nay.

Việt Namcó bắt kịp xu thế thời đại hay không" Cơ hội đang có và việc dân chủ hoá đất nước chỉ còn là thời gian vì thế giới tự do sẽ đứng về phiá những phong trào dân chủ. Nhưng bao lâu sẽ có cách mạng tự do dân chủ thì tuỳ thuộc vào dân Việt có vượt qua được nỗi sợ hãi mà guồng máy an ninh chế độ cộng sản Hà Nội đã gieo rắc từ bao năm qua hay không" Khi họ không còn biết sợ công an, khi đó sẽ có cách mạng vì không ai khác có thể thay đổi đất nước ngoài dân Việt.

© 2011 Buivanphu

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
Từ 20 năm qua (2004-2024), vấn đề hợp tác giữa người Việt Nam ở nước ngoài và đảng CSVN không ngừng được thảo luận, nhưng “đoàn kết dân tộc” vẫn là chuyện xa vời. Nguyên nhân còn ngăn cách cơ bản và quan trọng nhất vì đảng Cộng sản không muốn từ bỏ độc quyền cai trị, và tiếp tục áp đặt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh “làm nền tảng xây dựng đất nước”...
Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa. Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.
Việt Nam và Trung Quốc đã ký 14 Văn kiện hợp tác an ninh Chính trị, Kinh tế-Thương mại và Văn hóa-Báo chí trong chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của Tổng Bí thư Tô Lâm từ ngày 18 đến 20/08/2024. Trong số này, Văn kiện kết nối và thiết lập 3 Tuyến đường sắt giữa hai nước được gọi là “anh em” đã giúp Trung Quốc liên thông ra Biển Đông và bành trướng thế lực kinh tế...
Tại Campuchia, kênh đào Phù Nam Techo, trị giá 1,7 tỷ USD sẽ kết nối Phnom Penh và Vịnh Thái Lan, tượng trưng cho niềm tự hào dân tộc, an ninh và kết nối thương mại quốc tế. Người ta có thể cảm thấy như thế qua lời tuyên bố của Thủ tướng Campuchia Hun Manet và của ông Hun Sen, trong cương vị cố vấn, người đã chuyển giao quyền lực từ cha sang con vào năm ngoái...
Danh từ được tác giả dùng trong bài này không phải là danh từ theo tự loại mà là một thuật ngữ của Việt Cộng. Thuật ngữ Việt Công hay là danh từ Việt Cộng là những thuật ngữ, những từ được dùng trong nước dưới chính quyền Cộng sản Việt Nam. Ở trong nước người ta không dùng từ “Việt Cộng” mặc dầu Việt Cộng chỉ có ý nghĩa là Cộng Sản Việt Nam chớ không có nghĩa gì khác. Phải nói rõ ràng và dài dòng như vậy để tránh hiểu lầm và hiểu sai. Những danh từ đề cập trong bài viết này đa số là những danh từ kinh tế, vì chủ đề của bài viết là kinh tế, phân tích những ván đề kinh tế, nhận định về kinh tế chớ không phải chính trị, mặc dầu kinh tế không thể tách rời khỏi chính trị, xuất phát từ chính trị và tác động trở lại đời sống của mỗi con người chúng ta.
“Tôi hơi chậm hiểu lại rất chóng quên nên dù đã lê lết qua hơi nhiều trường ốc (trong cũng như ngoài nước) nhưng trình độ học vấn và kiến thức cũng chả̉ tới đâu, vẫn chỉ ở mức làng nhàng. Nói tóm lại là thuộc loại “xoàng”! Ơ! “Xoàng” thì đã sao nhỉ? Cũng không đến nỗi trăng/sao gì đâu, nếu tôi biết điều (biết chuyện – biết thân – biết phận) hơn chút xíu. Khổ nỗi, tôi lại cứ tưởng là mình cũng thuộc loại đầu óc trung bình (hoặc chỉ dưới mức đó không xa lắm) nên ghi danh học – tùm lum/tùm la – đủ thứ phân khoa: Triết Lý, Tâm Lý, Xã Hội, Nhân Chủng …
Một bài viết ngay sau khi được bầu vào chức Tổng Bí thư đảng CSVN cho thấy ông Tô Lâm đã hiện nguyên hình một người giáo điều, bảo thủ và hoài nghi trong “hợp tác quốc tế” với các nước. Trước hết ông cáo giác: “Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.” Lời tố cáo này không mới vì chỉ “nói cho có” và “không trưng ra được bằng chứng cụ thể nào”, giống hệt như những người tiền nhiệm...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.