Hôm nay,  

Việt Nam: Thở Hắt Ra Hô Hào Bảo Vệ Chủ Nghĩa Cộng Sản Để Hại Nước

06/11/200900:00:00(Xem: 5746)

Việt Nam: Thở Hắt Ra Hô Hào Bảo Vệ Chủ Nghĩa Cộng Sản Để Hại Nước

Phạm Trần
Hoa Thịnh Đốn - Khi con Đỉa bị bôi vôi thì nó điên lên không chịu nổi sức nóng của chất vôi  nên người nông dân Việt Nam khi ra ruộng thường đeo theo  vôi để diệt Đỉa khi bị nó cắn vào chân. Nếu  đem trường hợp con Đỉa phải vôi so với  sức kháng cự ở thời điểm cuối năm 2009 của đảng Cộng sản Việt Nam trước cơn hồng thủy  “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên thì cũng giống nhau.
Hãy đọc Nguyễn Đức Bình, Cựu Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, một trong số Tác giả nồng cốt của Cương lĩnh “Xây Dựng Đất Nước Trong Thời Kỳ Qúa Độ Lên  Xã Hội Chủ Nghĩa”  năm 1991: “Với nguy cơ tự diễn biến, phải có phòng, có chống nhưng phòng là quan trọng nhất. Phòng tốt, có hiệu quả đã có nghĩa là chống. Phòng thật tốt, hiệu quả thật tốt thì khỏi phải chống. Tích cực phòng chính là chống.  “Tự diễn biến’’ có thể xẩy ra trên các mặt tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Quan trọng nhất là phải phòng, chống nguy cơ ‘’tự diễn biến’’ về tư tưởng chính trị.” (Tạp chí Tuyên Giáo ngày 17-10-2009)
Bình thừa nhận  rằng : “Vấn đề tư tưởng quan trọng nhất hiện nay là niềm tin. Phải thẳng thắn thừa nhận trong Đảng ta hiện nay, ở một bộ phận không nhỏ, có sự khủng hoảng niềm tin. Đó là hiện tượng dao động về lý tưởng cách mạng, suy giảm niềm tin ở chủ nghĩa Mác-Lênin, ở chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên CNXH, ở sự lãnh đạo của Đảng và điều hành của nhà nước. Đó là một chỉ báo quan trọng, nếu không được sớm khắc phục, có thể dẫn đến nguy cơ ‘’tự diễn biến….’’.
 “….Hiện nay tình trạng mất đoàn kết khá phổ biến trong Đảng: Mất đoàn kết trong các cấp uỷ, cấp lãnh đạo, quản lý hệ thống chính trị. Có nơi nghiêm trọng, có nơi âm ỉ, nhưng mất đoàn kết có thể là mảnh đất dẫn đến hoặc có lợi cho nguy cơ ‘’tự diễn biến’’. Đặc biệt phải chú ý trong nguyên nhân mất đoàn kết có nhân tố ‘’tự diễn biến’’ ở số người nào đó. Và cũng cần phân biệt mất đoàn kết với những ý kiến khác nhau thông thường.”
Trước tình trạng bất đồng ý kiến, kèn cựa, trên bảo dưới không nghe trong nội bộ đảng, Bình khuyên : “Phải cùng nhau thảo luận, tranh luận nội bộ để đạt tới nhất trí, điều đó không những bình thường mà cần thiết. Không nên ngại tranh luận. Không bình thường là mất đoàn kết đến mức chia rẽ. Chia rẽ trên lĩnh vực không thật quan trọng thì không sao, nhưng nếu chia rẽ trên những vấn đề cơ bản về hệ tư tưởng chính trị và lý luận nền tảng thì nhất định phải cố gắng giải quyết kỳ được. Thiếu nhất trí, mất đoàn kết ở phạm vi cục bộ đã phải kiên quyết khắc phục. Còn thiếu nhất trí đến mức chia rẽ ở tầm vĩ mô thì nhất thiết phải triệt để giải quyết theo Cương lĩnh, đường lối và nguyên tắc Đảng. Đảng ta dứt khoát không để xảy ra tình hình đó nhất là hiện nay khi đang chuẩn bị tiến tới Đại hội XI.”
Bình cũng cảnh giác rằng: “Liên Xô sụp đổ để lại nhiều bài học phản diện trong đó có kinh nghiệm lớn cả về tư tưởng lý luận, cả về công tác tổ chức cán bộ dẫn đến ‘’tự diễn biến’’ .
Để đối phó với căn bệnh  chia rẽ và tình trạng “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” đang lan nhanh trong đảng, Bình khuyên tr6en 3 triệu đảng viên phải triệt để cương quyết với những kẻ “nội thù”.
Bình viết: “Tăng cường kiểm tra, giám sát là không thể thiếu. Không để xẩy ra tình trạng bùng nổ mới đặt vấn đề. Phải phòng cho được nguy cơ khi còn mới là dấu hiệu mầm mống, khả năng. Tất nhiên công tác kiểm tra, giám sát phải hết sức cụ thể, khách quan, thận trọng, đánh giá thật chính xác, không bỏ qua mọi sự việc liên quan nhưng không thổi phồng tình hình và nguyên nhân thành to chuyện. Khi thật sự đúng mất đoàn kết nhất là đến mức chia rẽ bè phái thì nhất định phải xử lý kiên quyết và xử lý từ nhiều phía đối với cá nhân, nhóm, tổ chức.”
Ý tưởng của Bình giống hệt như các Chỉ thị đối phó với tình trạng cán bộ muốn “xé rào” đi chệch hướng dưới thời Lê Khả Phiêu giữ chức Tổng Bí thư đảng Khoá VIII.  Một trong những ngăn cấm duới thời Phiêu (1996-2001) là các đảng viên không được phép nói  và làm những  điều đảng không cho phép, nhất là không được có lập trường đối lập với quyết định kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Để kết luận cho  bài viết của mình, Nguyễn Đức Bình, người Cộng sản tiêu biểu cho thành phẩn bảo thủ chai đá  nhất hiện nay trong đảng CSVN đã dọa  tòan đảng: “Đảng ta có thế mạnh tuyệt đối từ bề dày lịch sử và kinh nghiệm đấu tranh cách mạng. Đảng ta mạnh nhờ có đường lối duy nhất đúng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bởi ở nước ta không có và không thể có đất cho một đường lối chính trị nào khác tốt hơn khả dĩ được nhân dân chấp nhận ngoài đường lối độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Khách quan lịch sử mà nói, một đường lối khác, chẳng hạn đường lối xã hội dân chủ ai đó đang mơ tưởng, dù có tô vẽ nguỵ trang thế nào đi nữa thì rốt cuộc vẫn không thể gì khác là một đường lối đưa dân tộc ta đi vào con đường tư bản hoang dã tồi tệ nhất, cuối cùng không tránh khỏi trở lại số phận nô lệ hay phụ thuộc vào các thế lực đế quốc, phản động, thực dân mới kiểu mới.”
CA TỤNG, VÁI  XÁC CHẾT
Người thứ nhì ra sức bênh vực cho chủ nghĩa Cộng sản của Việt Nam là Phó Giáo sư, Tiến sỹ  Nguyễn Bá Dương, Học viện chính trị - Bộ Quốc phòng.
Trong Bài viết ”Cách mạng Tháng Mười Nga - mốc son khởi đầu thời đại mới của nhân loại và dân tộc Việt Nam” Đăng trên Tạp chí Tuyên Giáo ngày  24/10/2009, Dương nói: “Độc lập dân tộc và CNXH (Chủ nghĩa Xã hội) là sự lựa chọn duy nhất đúng của chúng ta.”
Nhưng Dương lại thú nhận và lạc quan tếu : “Thực tiễn cho thấy, phát triển không bao giờ là một đường thẳng tắp mà diễn ra quanh co, phức tạp theo hình xoáy trôn ốc. Sự ra đời, tồn tại, phát triển và sụp đổ của các nước CNXH ở Đông Âu và Liên Xô trong thập kỷ 90 của thế kỷ XX đã nói lên điều đó. Song, không vì thế mà tiến trình lịch sử bị đảo lộn, lịch sử bị “ngưng đọng”, “thụt lùi”. Những tổn thất từ sự sụp đổ của một số nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô chỉ có thể làm chậm bước tiến của nhân loại trên con đường đi tới CNXH, chứ không thể và không bao giờ xoá được lý tưởng cách mạng Tháng Mười cũng như mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH mà chúng ta đã lựa chọn. Điều này, đã được Đảng ta khẳng định: “Lịch sử đang trải qua những bước quanh co, phức tạp, song “loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH, vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử” (Chú thích: trích từ Cương lĩnh 1991)


Nói đến trường hợp của Việt Nam và những bất cập triền miên của đảng , Dương  biện bạch : “Đường lối đổi mới đất nước theo định hướng XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo là sự sáng tạo trong vận dụng và phát triển lý luận Mác-Lênin, lý tưởng cách mạng Tháng Mười. Thực tiễn xây dựng CNXH ở Liên Xô, Đông Âu và Việt Nam chỉ ra rằng, chủ nghĩa Mác-Lênin không phải là giáo điều, khô cứng; chủ nghĩa xã hội không phải là “cái bánh vẽ” cứ cầu mong là có ngay được. Thắng lợi của cách mạng vô sản mới chỉ là bước đầu, để có xã hội XHCN hiện thực cần phải có quá trình tìm tòi, xây dựng công phu, nghiêm túc.”
Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã tìm tòi, ăn no đến bội thực  với Chủ nghĩa Cộng  sản từ năm 1930 và cũng đã  chịu làm kẻ đánh thuê  cho quốc tế Cộng sản và  Chủ nghĩa bạo tàn này mà đảng của Hồ  đã gây ra tai họa cho đất nước và làm thiệt mạng cho hàng chục triệu người Việt Nam  trong 30 năm chiến tranh.
Vậy mà, cho đến bây giờ, những người CSVN như Nguyễn Bá Dương vẫn coi đó mới là “thắng lợi bước đầu” của “cách mạng vô sản” đển tiến đến “Xã hội Chủ nghĩa hiện thực” thì phải mất bao nhiêu chục năm nữa, đảng CSVN  biết sáng mắt ra  là mình đã lầm đường, lạc lối   "
Đó cũng chính là lý do  tại sao từ sau khi khối Liên Xô và các nước Xã hội Chủ nghĩa ở đông Âu tan rã từ 1989 đến 1991, nhiều đảng viên CSVN, kể cả một số cấp Lãnh đạo đã mất định hướng để  “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa”.
 Dương tự an ủi: “Không thể vì sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu mà đã vội quy kết đó là “sự phá sản”, “sự sụp đổ” của chủ nghĩa Mác-Lênin, của lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, sự thất bại của lý tưởng cách mạng Tháng Mười.  Đối với nhân loại, học thuyết Mác chỉ có một và cách mạng Tháng Mười cũng chỉ có một, song con đường thực hiện lý tưởng XHCN mà học thuyết Mác và lý tưởng cách mạng Tháng Mười đặt ra hoàn toàn không phải chỉ có một. Vì vậy, sự sụp đổ của “mô hình XHCN” ở Liên Xô và Đông Âu chỉ là sự sai lầm của Đảng Cộng sản khi đi ngược lại, làm trái nguyên lý chủ nghĩa Mác-Lênin và lý tưởng của cách mạng Tháng Mười.
Vì vậy, bất luận trong điều kiện, hoàn cảnh nào, người cộng sản đều phải tỉnh táo, sáng suốt, phải hiểu và thực hiện đúng những nguyên tắc mácxít-lêninnít.”
 Sau cùng, cũng giống như cái đầu tuy có óc nhưng  đã khô cứng của Nguyễn Đức Bình, Dương nói như người có bệnh nói sảng : “Giờ đây, con đường đi lên CNXH vẫn là một tất yếu khách quan. Lý tưởng của cách mạng Tháng Mười vẫn là niềm khát khao, mơ ước, sự hấp dẫn “diệu kỳ” đang lôi cuốn các dân tộc yêu chuộng hoà bình đi theo, làm theo. Ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và lý tưởng Cách mạng Tháng Mười không bao giờ tắt. V.I.Lênin khẳng định “Kinh nghiệm đó sẽ không bị quên đi... cái kinh nghiệm ấy sẽ không thể bị gạt bỏ, dù cho cách mạng Nga và cách mạng XHCN quốc tế sẽ có trải qua những đột biến gian khổ đến mấy nữa.”
Đến lượt Vũ Như Khôi, Phó Giáo sư, Triến Sỹ cũng theo đóm ăn tàn để  mặc áo thụng vái cái  xác chết  đã rữa nát  và sặc mùi  hội hám của Chủ nghĩa Cộng sản    : “Sự sụp đổ, tan rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là một tổn thất nặng nề của chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng thế giới. Phải nhận định một cách nghiêm túc rằng cho đến nay chúng ta còn chưa lý giải đầy đủ nguyên nhân và tính chất của sự sụp đổ, tan rã đó. Tuy nhiên, chúng ta có những căn cứ lý luận và thực tiễn để khẳng định lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa vẫn sống mãi, vẫn đang cổ vũ nhân loại tiến bộ tiếp tục cuộc đấu tranh cho những lý tưởng tốt đẹp đó.
Các nhà lý luận tư sản hiện đại, dù xuyên tạc, bài bác thế nào đi nữa, cũng không thể phủ nhận tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Cùng lắm, họ chỉ có thể nói chủ nghĩa xã hội chưa thể thắng thế trong bước phát triển hiện thời của nhân loại hoặc khuyếch đại những khuyết tật của chủ nghĩa xã hội hiện thực…. Sự biến ở Liên Xô và Đông Âu vừa qua là bước thụt lùi lớn của lịch sử. Nhưng lý tưởng xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa vẫn đang là niềm khao khát của nhân dân tiến bộ khắp các châu lục. Chủ nghĩa xã hội hiện thực dù có bị thu hẹp phạm vi nhưng các nước còn lại vẫn đứng vững và phát triển, mở ra tư duy mới về chủ nghĩa xã hội và cách thức đi lên chủ nghĩa xã hội….”(Báo Điện tử của Đảng CSVN ngày 21-10-2009)
Nhưng “các nước còn lại” đang đeo đẳng chủ nghĩa Cộng sản chỉ có Trung Hoa, Việt Nam, Bắc Hàn và Cuba.  Nhân dân của 4 nước, về mặt tinh thần, vẫn chưa dược hưởng các quyền tự do căn bản của con người và tiếp tục bị Nhà nước độc tài kiểm soát ngặt nghèo. Về mặt kinh tế thì Việt Nam, Bắc Hàn và Cuba vẫn đứng trong danh sách các nước nghèo và chẫm tiến nhất thê giới. Riêng Trung Hoa, tuy nay là một nước mạnh về kinh tế và đang đổ tiền ra để chi tiêu cho quốc phòng thành cường quốc về quân sự, nhưng mức sống  của đại đa số trong hơn  1 tỷ dân vẫn  còn kém xa nhân dân Nam Hàn, Đài  Loan, Tân Gia Ba và Nhật Bản.
 Vậy mà Vũ Như Khôi vẫn có thể viết lạc lõng: “ …Kỷ niệm 92 năm Cách mạng Tháng Mười, nhìn lại chặng đường dài dưới ánh sáng chỉ đường của cuộc cách mạng vĩ đại đó, với những chiến công và thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại, chúng ta càng vững tin vào con đường Bác Hồ, Đảng ta, nhân dân ta đã chọn, con đường Cách mạng Tháng Mười.”
Nhưng vào lúc đảng đang vỡ ra từng mảnh vụn mà cả ba  “Nhà lý luận con vẹt” Nguyễn Đức Bình, Nguyễn Bá Dương và Vũ Như Khôi  đã xung phong đưa đầu ra bênh vực cho sự lựa chọn Chủ nghĩa Cộng sản để kêu gọi đảng viên tiếp  tục kiện định cái chủ nghĩa phá sản này ở Việt Nam thì có ích lợi gì cho dân, cho nước  "
Ai cũng biết trong Cương lĩnh “Xây dựng đất nước trong thời kỳ qúa độ lên Xã hội Chủ nghĩa” năm 1991, đảng CSVN  đã không dám đưa ra thời hạn phải “qúa độ” bao nhiêu năm thì nhân dân Việt Nam mới đến được cái thiên đàng có dân chủ, tự do, cơm ăn áo mặc và mọi người được học hành như Hồ Chí Minh mơ ước khi còn sống.
Họ nói sự lựa chọn của đảng CSVN để “qúa độ” là “chưa có tiền lệ” nên phải kiên nhẫn tìm tòi và định hướng. Nhưng đến cuối năm 2009, sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh và 23 năm Đổi mới mà nhân dân  Việt Nam vẫn còn phải sắp hàng sau lưng đảng  đì đẹt chạy theo các nước láng giềng, trong khi những kẻ có chức, có quyền lại giầu nứt mắt ra, được độc quyền hưởng thụ mọi thứ của tinh thần và vật chất thì đến bao giờ  người dân Việt Nam mới thấy được ánh sáng ở cuối đường hầm của  cái  bánh vẽ “xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”  của đảng Cộng sản Việt Nam  "
Phạm Trần
(11/09)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một quan điểm lạc quan đang dấy lên trong hàng ngũ Lãnh đạo đảng CSVN khi bước vào năm 2024, nhưng thực tế tiềm ẩn những khó khăn chưa lường trước được...
Nếu Donald Trump giành lại được Nhà Trắng vào tháng 11, năm nay có thể đánh dấu một bước ngoặt đối với quyền lực của Mỹ. Cuối cùng, nỗi sợ hãi về tình trạng suy tàn đã khiến cho người Mỹ bận tâm kể từ thời thuộc địa sẽ được biện minh. Hầu hết người Mỹ tin rằng, Hoa Kỳ trong tình trạng suy tàn, Donald Trump tuyên bố rằng ông có thể “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”. Nhưng tiền đề của Trump đơn giản là sai, và các biện pháp trị liệu được ông đề xuất đặt ra mối đe dọa lớn nhất đối với nước Mỹ.
Đảng CSVN hay nói “Trí thức là “nguyên khí của quốc gia”, làm hưng thịnh đất nước, rạng rỡ dân tộc*; “Trí thức là vốn liếng quý báu của Dân tộc”; hay “Thanh niên là rường cột của nước nhà” , nhưng tại sao nhiều người vẫn ngại đứng vào hàng ngũ đảng? Lý do vì đảng chỉ muốn gom Trí thức và Thanh niên “vào chung một rọ để nắm tóc”...
Tây Bắc hay Tây Nguyên thì cũng chừng đó vấn đề thôi: đất đai, tôn giáo, chủng tộc… Cả ba đều bị nhũng nhiễu, lũng đoạn tới cùng, và bị áp chế dã man tàn bạo. Ở đâu giới quan chức cũng đều được dung dưỡng, bao che để tiếp tục lộng quyền (thay vì xét sử) nên bi kịch của Tây Nguyên (nói riêng) và Cao Nguyên (nói chung) e sẽ còn dài, nếu chế độ toàn trị hiện hành vẫn còn tồn tại...
Bữa rồi, nhà thơ Inra Sara tâm sự: “Non 30 năm sống đất Sài Gòn, tôi gặp vô số người được cho là thành công, thuộc nhiều ngành nghề, đủ lứa tuổi, thành phần. Lạ, nhìn sâu vào mắt họ, cứ ẩn hiện sự bất an, lo âu.” “Bất an” có lẽ không chỉ là tâm trạng của người Sài Gòn mà dường như là tâm cảm chung của toàn dân Việt – không phân biệt chủng tộc, giới tính hay giai cấp nào ráo trọi – nhất là những kẻ sắp từ giã cõi trần. Di Cảo của Chế Lan Viên và di bút (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của Nguyễn Khải, theo nhận xét của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, chỉ là những tác phẩm “cốt để xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng).”
Tập Cận Bình tin rằng lịch sử đang dịch chuyển theo hướng có lợi cho mình. Trong chuyến thăm Vladimir Putin tại Matxcơva vào tháng 3 năm ngoái, nhà lãnh đạo Trung Quốc nói với Tổng thống Nga rằng “Ngay lúc này, chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi chưa từng thấy trong 100 năm qua, và chúng ta đang cùng nhau thúc đẩy sự thay đổi ấy.”
Sau 20 năm chiêu dụ Kiều bào về giúp nước không thành công, đảng CSVN lại tung ta Dự án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” vào dịp Tết Nguyên Đán Giáp Thìn 2024. Đây là lần thứ tư, từ khi có Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004, một Quyết định nhằm mưu tìm đầu tư, hợp tác khoa học, kỹ thuật và tổ chức các Hội, Đoàn người Việt ở nước ngoài, đặt dưới quyền lãnh đạo của đảng CSVN được tung ra...
Khi số lượng di dân vượt biên bất hợp pháp qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico tăng cao kỷ lục, câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Làm thế nào mà Hoa Kỳ lại rơi vào tình trạng này, và Hoa Kỳ có thể học hỏi những gì từ cách các quốc gia khác ứng phó với các vấn đề an ninh biên giới và nhập cư. Chào đón công dân nước ngoài đến với đất nước của mình là một việc khá quan trọng để giúp cải thiện tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, nguồn cung ứng lao động và đa dạng văn hóa. Nhưng những di dân vào và ở lại Hoa Kỳ mà không có thị thực hoặc giấy tờ hợp lệ có thể gây ra nhiều vấn đề – cho chính bản thân họ và cho cả chính quyền địa phương bởi tình trạng quá tải không thể kịp thời giải quyết các trường hợp xin tị nạn tại tòa án nhập cư, hoặc cung cấp nơi ở tạm thời và các nhu cầu cơ bản khác. Mà tình trạng này hiện đang xảy ra ở rất nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Trên vai những pho tượng trắng trong vườn Lục Xâm Bảo, lá vàng đã bắt đầu rơi lất phất. Mùa Thu Paris thật lãng mạn. Henry Kissinger đi dạo quanh một hồ nhỏ ở ngoại ô gần Rambouillet. Nơi đây từng cặp tình nhân đang nắm tay nhau bên những cành cây la đà bóng hồ. Ông thấy lòng mình nao nao (melancholic) vì sắp tới phiên họp quan trọng nhất với ông Lê Đức Thọ.
Tôi nghe nhiều người tỏ ý bi quan về hiện cảnh cũng như tương lai (đen tối) của Việt Nam. Dân tộc nào, số phận đó. Một đất nước có những người viết sử và làm luật (cỡ) như ông Dương Trung Quốc thì… đen là phải!
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.