Hôm nay,  

Trời Đất Giao Hòa

18/12/200800:00:00(Xem: 7251)

TRỜI ĐẤT GIAO HÒA

Linh Mục Anphong Trần Đức Phương
(CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG, NĂM B Và ĐẠI LỄ GIÁNG SINH)
Paul Claudel (1868 – 1955) là một văn hào người Pháp rất nổi tiếng. Khi lớn lên, ông sống như một người vô thần, mặc dù cha mẹ và gia đình là người Công Giáo. Trong khi đang theo học về ngành ngoại giao ở Paris, vào một buổi chiều ngày lễ Giáng Sinh năm 1886, lúc ông 18 tuổi, nhân đi qua Nhà thờ Notre Dame, Paris, ông có ý tò mò đi vào Nhà thờ để xem cảnh Giáng Sinh. Lúc đó vào giờ hát Kinh Chiều, và ca đoàn đang hát bài  Chúc Tụng (Magnificat). Tiếng hát rất thánh thiện và thanh thóat đã làm cho chàng thanh niên Claudel cảm thấy một bầu khí thật thiêng liêng bao trùm anh và như có một sức mạnh siêu nhiên nào đó làm anh như bị chiếm hút trong ngây ngất. Sau này, ông ghi lại: “Ngay trong khoảng khắc đó, trái tim tôi bị xúc động và tôi tin!” Đó là cảm nghiệm siêu nhiên đầu đời của anh, và giây phút thiêng liêng đó cứ ám ảnh tâm trí anh, làm anh quyết định tìm hiểu về Chúa qua Kinh Thánh, và sau một quá trình khá lâu dài  tìm hiểu, ông đã “nắm bắt được Thiên Chúa” và “trở lại” cuộc sống Đức Tin Công Giáo suốt đời một cách tích cực. 
Từng là một sinh viên rất xuất sắc, khi ra trường, ông đã được bổ nhiệm vào nhiều chức vụ quan trọng của ngành ngoại giao Pháp ở nhiều nơi khác nhau, kể cả ở Trung Hoa, ở Nam Mỹ. Ông đã từng là Đại Sứ Pháp tại Nhật Bản (1922-1928), ở Hoa Kỳ (1928-1933), và ở Bỉ từ năm 1933 cho đến khi về hưu (năm 1936). Cuộc đời của Paul Claudel hầu hết đều ở hải ngọai. Nhưng dù đi đâu và ở chức vụ nào, ông vẫn giữ được một Đức Tin Công Giáo rất sống động, trong sáng và hạnh phúc. Chính Niềm Tin đó đã cho ông nguồn cảm hứng để sáng tác nhiều tác phẩm văn chương nổi tiếng phản ảnh đời sống đạo đức của ông. Trong số các tác phẩm lừng danh của ông (như Cinq Grandes Odes, Tête d’Or, Le Soulier de Satan,…) có bản “ Truyền Tin” (L’annonce faite à Marie,The Annunciation of Mary), ông viết trong hai năm 1910-1911 và ra mắt năm 1912. Vừa là một nhà ngoại giao xuất sắc, lại là một học giả, một thi sĩ và nhà văn danh tiếng, ông được mời vào Hàn Lâm Viện Pháp.
Giờ phút “Truyền Tin” là một giờ phút uy linh huyền nhiệm của việc Ngôi Lời Thiên Chúa xuống thai  trong lòng Trinh nữ Maria. Giờ phút thiêng liêng “Trời Đất Giao Hòa.” Thiên Chúa mặc lấy thân xác con người và ở cùng con người. Đây là giờ phút vô cùng quan trọng của lịch sử Ơn Cứu Độ. Vì thế, để  tưởng nhớ giờ phút linh thiêng đó, hàng ngày, các tín hữu luôn dành ba khoảng khắc quan trọng của một ngày là sáng, trưa và chiều để nguyện Kinh Truyền Tin. Ở những nơi có Thánh đường, vào những giờ phút đó, chúng ta thường nghe có những tiếng chuông gọi là chuông ‘Truyền Tin’, ‘Chuông Nguyện’ (cũng gọi là chuông ‘nhật một’, vì kéo từng tiếng ba lần, sau mới đổ hồi). Cũng có nhiều thi phẩm và nhạc phẩm diễn tả giây phút huyền nhiệm đó, giây phút Thiên Chúa đến với con người để nối kết và hòa giải.Thi Sĩ Hàn Mạc Tử cũng có Bài thơ cảm động về “Truyền tin”; nhạc sĩ Hoàng Diệp với bản Thánh Ca “Theo Tiếng Thiên Thần Xưa Kính Chào”…


Tất nhiên Lễ Giáng Sinh vẫn là Đại Lễ được long trọng mừng ở khắp nơi, để kỷ niệm Chúa Hài Nhi sinh ra đem niềm vui Ơn Cứu Độ đến cho mọi người có tâm hồn thành tâm, thiện chí. Tuy nhiên giờ phút Truyền Tin cũng thật sự rất quan trọng.  Khi Thiên Thần Chúa đến báo tin việc Mẹ Maria được Thiên Chúa chọn để cưu mang và sinh ra Đấng Cứu Thế, sau khi đã hiểu rõ ý Chúa, và việc Chúa Cứu Thế xuống thai trong lòng Mẹ là do tác động của Chúa Thánh Thần,và Mẹ vẫn đồng trinh trọn đời, Đức Mẹ thưa ‘Xin Vâng’. Chính giây phút đó “Trời và Đất giao hòa: Thiên Chúa xuống thế làm người và ở cùng chúng ta.” Mầu Nhiệm đó đã tác động mạnh vào tâm hồn Paul Claudel để ông viết  nên tác phẩm trứ danh “Truyền Tin.” Hàng năm, giáo Hội long trọng mừng Lễ này vào ngày 25 tháng 3.
Trong Chúa Nhật IV Mùa Vọng, năm B, chúng ta được nghe bài Phúc Âm rất cảm động diễn tả về giây phút thánh thiêng đó (Luca 1,26-38). Bài Phúc Âm này cùng với Bài Đọc I trích trong sách Tiên Tri Samuel (7,1-5; 8-12; 14-16) và Bài Đọc II trích trong thơ Rôma (16, 25-27) đều giúp chúng ta những tư tưởng thánh thiện, thiêng liêng để chúng ta chuẩn bị tâm hồn xứng đáng mừng kỷ niệm Thiên Chúa đã xuống thế làm người  từ hơn hai ngàn năm trước.
Lịch sử Ơn Cứu Độ kéo dài cách nhiệm mầu trong Thánh Kinh Cựu Ước đã được thực hiện trong ngày “Thiên Chúa làm người ở giữa chúng ta!” Nhưng Ngài không sinh ra trong cảnh giầu sang, trong nhà lầu gác tía; trái lại, Ngài đã sinh ra trong cảnh hèn mọn cùng cực, trong hang đá bò lừa; Mẹ Maria và Thánh Giuse cũng chỉ là những người nghèo khó, bình dân, đơn sơ. Ngài đến không phải để “thống trị, để được người ta hầu hạ, nhưng Ngài đến để phục vụ và hầu hạ mọi người (Matthêu 20,28). Ngài đến để đem cả cuộc đời phục vụ những người nghèo khó, bệnh tật, những lớp người thấp hèn nhất. Ngài đến để chia sẻ thân phận đau khổ của mọi người và rao giảng Tin Mừng tình thương và ơn cứu độ. Ngài đến để kêu gọi mọi người, kể cả những người lỡ yếu đuối sa ngã, biết nhận ra: Thiên Chúa là Cha yêu thương của mọi người; Thiên Chúa không xa rời con người nhưng luôn gần gũi mọi người, kể cả những người tội lỗi ( Matthêu 18,12…), để giúp mọi người canh tân đời sống, sống xứng đáng những con người đã được Chúa dựng nên “theo hình ảnh của Chúa!”
Chỉ còn mấy  ngày nữa, là chúng ta lại được cùng toàn thể Giáo Hội và thế giới mừng Đại Lễ Giáng Sinh. Chúng ta lại được nghe lời Thiên Thần hát mừng năm xưa:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm!”
(Luca 2,14)
Xin Chúa đến với Thế Giới, đến với mọi người chúng ta, đến với gia đình chúng ta, giúp chúng ta xây dựng sự hòa hợp yêu thương ngay trong tâm hồn chúng ta, trong gia đình chúng ta, và chung tay xây dựng Hòa Bình và sự Công chính trên thế giới. Xin cho chúng ta được sống những cảm nghiệm thiêng liêng đã tác động Paul Claudel, cũng như bao tâm hồn thành tâm, thiện chí khác, để chúng ta biết nhìn vào máng cỏ nghèo hèn, học bài học sống khó nghèo, khiêm tốn, sống yêu thương hòa hợp và phục vụ mọi người, nhất là những người nghèo khó, già yếu, bệnh tật.
Xin cùng hiệp lời cầu nguyện chung để ơn sủng Giáng Sinh giúp đổi mới con người chúng ta, gia đình chúng ta, thế giới chúng ta; giúp chúng ta luôn sống đức tin một cách tích cực, sống động, vui tươi, hạnh phúc, và đem tình yêu của Chúa đến cho mọi người chúng ta gặp gỡ hàng ngày trong mọi hoàn cảnh.
Xin chúc mừng Giáng Sinh 2008 và Năm Mới 2009.
Linh Mục Anphong Trần Đức Phương

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
Biển Đông hiện như một thùng thuốc súng và, liệu nếu xung đột bùng ra, chúng ta có phải đối phó với một quân đội Trung Quốc man rợ mà, so với quân đội Thiên hoàng Nhật trong Thế chiến thứ hai, chỉ có thể hơn chứ khó mà bằng, đừng nói chuyện thua? Như có thể thấy từ tin tức thời sự, cảnh lính Trung Quốc vác mã tấu xông lên tàu tiếp tế của Philippines chém phá trông man rợ có khác nào quân cướp biển từ tận hai, ba thế kỷ trước? [1] Rồi cảnh chúng – từ chính quy đến dân quân biển, thậm chí cả ngư dân – trấn lột, cướp phá, hành hung và bắt cóc các ngư phủ Việt Nam từ hơn ba thập niên qua cũng thế, cũng chính hiệu là nòi cướp biển.
Hội nghị Trung ương 10/khóa đảng XIII kết thúc sau 3 ngày họp (18-20/09/2024) tại Hà Nội nhưng không có đột phá nào, mọi chuyện vẫn “tròn như hòn bi” dù đây là hành động đầu tiên của tân Tổng Bí thư Tô Lâm...
Việc nhà hoạt động dân chủ Trần Huỳnh Duy Thức được nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do trước thời hạn có lẽ là một trong những vấn đề đã được nội các chính quyền Biden-Harris quan tâm và vận động từ năm 2021.
Đối với triết gia Immanuel Kant, lời nói dối là “cái ác bẩm sinh sâu xa trong bản chất con người” và cần phải tránh xa ngay cả khi đó là vấn đề sống còn1. Trong tác phẩm “Deciphering Lies”, Bettina Stangneth, 2017, viết rằng: “Trong số những lý do khiến người ta nói dối vì điều đó có thể giúp họ che giấu bản thân, ẩn náu và tránh xa những người xâm phạm vùng an toàn của họ.” Stangneth cho biết thêm, “cũng không khôn ngoan khi thả trẻ em ra thế giới mà không biết rằng người khác có thể nói dối chúng.” The Wasghington Post, ban kiểm tra sự thật, cho biết: Trong bốn năm làm tổng thống thứ 45, từ 2017-2021, đến cuối nhiệm kỳ, Trump đã tích lũy 30.573 lời nói dối trong suốt nhiệm kỳ tổng thống - trung bình khoảng 21 lời tuyên bố sai lầm mỗi ngày. Từ khi thua cuộc tái ứng cử vào tay tổng thống Joe Biden cho đến giờ này, tranh cử với bà Harris, ông Trump càng gia tăng khẩu phần nói dối, phong phú đến mức độ không thể đếm cho chính xác.
Câu chuyện hoang tưởng “di dân ăn thịt chó, mèo” của Donald Trump và JD Vance gây ra nỗi sợ hãi, tạo ra nhiều kích động tiêu cực, vì nó được nói ra trước 81 triệu dân Mỹ, từ một cựu tổng thống. Những lời vô căn cứ tràn đầy định kiến và thù hận đó như một bệ phóng cho con tàu “Kỳ Thị” bay vút vào không gian của thế kỷ 21, thả ra những làn khói độc. Nó như một căn bệnh trầm kha tiềm ẩn lâu ngày, nay đúng thời đúng khắc nên phát tán và lan xa. Nói như thế có nghĩa, con tàu “Kỳ Thị” này, căn bệnh này, vốn đã có từ rất lâu đời. Nó âm ỉ, tích tụ, dồn nén theo thời gian, chực chờ đến ngày bùng nổ. Một tuần qua, người Haiti, là nạn nhân của cơn bùng phát này. Gần nửa thế kỷ trước, và cho đến tận nay, là cộng đồng người gốc Việt.
Sự trỗi dậy của những nhóm cực hữu đang làm sống lại làn sóng kỳ thị chủng tộc, một căn bệnh trầm kha chưa bao giờ thực sự chấm dứt ở Hoa Kỳ. Để thực hiện những chương trình nghị sự của mình, những người theo chủ nghĩa thượng tôn da trắng đã thực hiện nhiều chiến lược, chiến thuật khác nhau. Trong những năm gần đây, nhiều nhà hoạt động đã cảnh báo các nhóm cực hữu đang cố sử dụng nền tảng giáo dục làm công cụ để bảo vệ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Một bài viết trên trang mạng lithub.com của tác giả Jason Stanley đã phân tích sâu sắc về đề tài này.
Nhìn ở bề ngoài thì ông Benjamin Netanyahu, Thủ tướng Do Thái, đang làm cái việc của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) Nguyễn Văn Thiệu từng làm với cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ 1968. Năm đó ông Thiệu bị cáo buộc là hành động để đảng Dân Chủ thua đảng Cộng Hòa còn bây giờ thì, xem ra, ông Netanyahu lại đang tháu cáy với nước cờ tương tự tuy nhiên bản chất hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.