Hôm nay,  

Mỹ Trao Huy Chương Quí Nhất: Đức Đạt Lai Lạt Ma Đời Thứ 14

10/18/200700:00:00(View: 7897)

Dân chúng ngồi tràn ngoài sân dự khán buổi lễ.

Hoa Thịnh Đốn.- Đức Đạt Lai Lạc Ma 14 đã  được Tổng Thống Bush và Quốc Hội Mỹ trao tặng huy chương Congressional Gold Medal vào lúc 1 giờ trưa ngày 17 Tháng 10, 2007 tại Rotunda, U.S. Capitol  và thuyết giảng sau đó  ở West Lawn Quốc Hội Hoa Kỳ.

International Campaign for Tibet đã phụ trách nhiều chương trình ở đây từ 11 giờ sáng đến 4 giờ chiều.

Đức Đạt Lai Lạt Ma, Nhà lãnh đạo tôn giáo  và cũng là nhà lãnh đạo lưu vong Tây Tạng nói: ”Dân tộc Việt Nam rất anh hùng rất đáng kính trọng. Sau một thời gian khó khăn, khi mức sống của nhiều người được cải thiện thì sức mạnh tinh thần và tâm linh của người Việt sẽ giúp họ tìm ra con đường tốt đẹp hơn cho Việt Nam” . Ngài đã nói như vậy khi  “phái đoàn” của Nhật báo Việt Báo đến viếng thăm Ngài vào ngày 14 Tháng 9, 2006 tại Pasadena, California.

Quốc Hội Hoa Kỳ, với 387 Dân Biểu và Thượng Nghị Sĩ đã thông qua  dự luật trao tặng Đức Đạt Lai Lạt Ma Congressional Gold Medal. Đây là huy chương cao quý nhất dành cho người dân sự. Trước Ngài chỉ có Tổng Thống George Washington, Pope John Paul II, và những người được Giải  Nobel như Nelson Mandela và Elie Wiesel được  huy chương này.

Huy chương cao quý nhất này được trao tặng cho Đức Đạt Lai Lạc Ma là để  vinh danh những đóng góp, vận động lâu dài, nổi bật cho hòa bình,   nhân quyền khắp thế giới và những cố gắng  tìm giải pháp không bạo động cho  vấn đề Tây Tạng qua những cuộc đối thoại với những nhà lãnh đạo Trung Cộng. 

Được biết Đức Đạt Lai Lạc Ma năm nay 72 tuổi. Ngài sinh ngày 5 Tháng 5 năm Ất Hợi (16 Tháng Bảy năm 1935) tại làng Takster trong vùng Ambo ở Miền Đông Bắc Tây Tạng  và Ngài được đặt tên là Lahmo Dhondup. Khi chú bé Dhondup được hai tuổi thì gia đình ngỡ ngàng đón tiếp một phái đoàn từ điện Potala của kinh đô Lhasa đến.

Khi chú bé Dhondup làm một số thử nghiệm theo lời yêu cầu của phái đoàn Lhasa,  phái đoàn xác nhận điều mà họ đã cảm biết được từ những chỉ dạy bí hiểm của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 trước khi Ngài viên tịch. Chú Bé Dhondup được công nhận là hóa thân  tái  sanh của Đạt Lai Lạt Ma  thứ  13.

Hai năm sau, lúc 4 tuổi chú bé Lahmo Dhondup được long trọng rước về Lhasa và được tấn phong là Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14  ngày 22 Tháng Hai, 1940, với Pháp danh là Jetsun Jamphel Ngawang Lobang Yehe Tenzin Gyatso.

Vào mùa Xuân năm đó , dọc đường cả ngàn vị Tăng và dân chúng Tây Tạng đứng hai bên chào mừng Ngài, họ rất vui mừng và chú bé thì bàng hoàng  vì từ nay đời chú sẽ đổi khác.

Đến năm 1949 Trung Hoa trở thành Trung Cộng. Tháng 10, 1950 Quân của Mao Trạch Đông tiến vào Tây Tạng, năm ấy Đức Đạt Lai Lạt Ma mới 15 tuổi, chưa hoàn tất tu chứng để trở thành một vị sư và cũng chưa hiểu gì ở thế giới bên  ngoài  nhà chùa và cung điện Tây Tạng.  Nhưng trách nhiệm với đạo và đời thì đã  nặng trĩu trên vai và tràn đầy trong trí Ngài từ đấy.

 Năm 1950, Ngài mới 15 tuổi, được đăng quang là Quốc Trưởng và là người lãnh đạo Tây Tạng,  cũng là năm Tây Tạng bị cuốn vào trận cuồng phong của Trung Cộng  với hai làn sóng dữ.  Một  là chủ nghĩa CS không dung thứ  vai trò của tôn giáo,  Phật Giáo, và hai là Trung Cộng muốn đồng hóa Tây Tạng vào cộng đồng Trung Hoa. Tây tạng sẽ là một phần nhỏ của Trung Cộng.

Trong  mười năm liền kế tiếp Đức Đạt Lai Lạt Ma đã phải vừa hoàn tất việc tu học để trở thành một vị sư  - một tiến trình nhiều gian khổ và khó khăn cho trí tuệ, lại vừa học hỏi về thế giời bên ngoài với trách nhiệm lãnh đạo một quốc gia.  Nhà sư Tensin Gyato bàng hoàng khi nghe Mao Trạch Đông cho Đạo Phật là một thứ độc dược của con người và kế hoạch phát triển Tây Tạng trong cuộc Cách Mạng Vô Sản.

Cả đạo và đời đều bị đe dọa. Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma hoàn tất bằng Tiến Sĩ về Phật học thì cũng là lúc Tây Tạng bị thôn tính.

Đêm 17 Tháng 3, 1959 Đức Đạt Lai Lạt Ma cải trang thành thường dân cùng một số nhỏ trong triều đình trốn khỏi Lhasa và băng rừng vượt núi tìm đường thoát ra ngoài.

Từ đấy Trung hoa cũng như Tây Tạng trải qua những biến động do Mao Trạch Đông đề xướng như Cải cách ruộng đất, Chiến dịch tiêu diệt bọn khuynh hữu, Cách mạng văn hóa…kéo dài hơn một phần tư thế kỷ, trong số 20 đến 70 triệu người bị giết có hơn một triệu người Tây Tạng ( 15%).

Có chừng 100 ngàn người Tây Tạng lưu vong, tản mác đi khắp năm Châu. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã xây dựng lại hai thực thể là cộng đồng lưu vong cho hiện tại và cho dân tộc Tây Tạng  tương lai.

Tại vùng đất Dharansaka của Ấn Độ, dưới sự hướng dẫn của Đức Đạt Lai Lạt Ma cộng đồng ấy đã mở một kỷ nguyên vận động quốc tế chưa từng thấy trong lịch sử Tây Tạng và  đạt được những kết quả chưa từng thấy từ nhiều cộng đồng lưu vong khác.

Kể về lực thì thật ra Cộng đồng Tây Tạng lưu vong  không đông mà cũng chẳng giàu, nhưng nói vế thế thì cộng đồng này có sức tác động hiếm có  ở nhiều diễn đàn khác nhau, đó chính là nhờ vị lãnh đạo tinh thần của họ, Đức Đạt Lai Lạt Ma 14. 

Những thử thách chính trị càng trở nên nguy ngập như vụ Thiên An Môn, hằng ngàn người bị thảm sát, lúc đó người  dân Tây Tạng mới hiểu vì sao Đức Đạt Lai Lạt Ma  kêu  gọi dân chúng phải đấu tranh bất bạo động và muốn thảo  luận  chuyện hòa giải với Trung Cộng.

Năm 1989 Đức Đạt Lai Lạt Ma được giải thưởng Nobel  Hòa Bình. Đối với  Đức Đạt Lai Lạc Ma, giải thưởng Nobel vinh danh Ngài nhưng có nghĩa là thế giới công nhận và ủng hộ cuộc đấu tranh có chính nghĩa của nhân dân Tây Tạng.

Trải qua gần nửa thế kỷ,  từ năm 1967 đến nay Đức Đạt Lai Lạt Ma 14  đã thăm viếng gần  năm mươi quốc gia, gặp gỡ hầu hết các vị lãnh đạo dân chủ của thế giới. Đối với Trung Cộng thì đây là một khiêu khích không thể chấp nhận được vì Đức Đạt Lai Lạt Ma không phải là Quốc trưởng của một quốc  gia,  Tây Tạng chỉ là một đặc khu  của Trung Quốc.  Ngài cũng là một vị Tăng Thống đã hân hạnh được gặp ba vị Đức Giáo Hoàng của Giáo Hội Công Giáo Hoàn vũ (ĐGH  Paul VI, ĐGH John Paul II  và ĐGH Benedictine).

Nhờ nhân cách đặc biệt của Ngài mà cuộc đấu tranh bền bĩ của người Tây Tạng mà  ngày nay Tây Tạng đã trở thành vấn đề của Thế Giới và Trung Quốc.

Người Tây  Phương thường lý luận rằng sở dĩ Đức Đạt Lai Lạt Ma chủ trương đấu tranh bất bạo động là vì Ngài chịu ảnh hưởng tinh thần bất bạo động của Thánh Mahatma Ghandi.  Thật ra chiến lược đấu tranh bất bạo động  xuất phát từ cái tâm Từ Bi  của một nhà tu hành. Nhất là Ngài được thế giới coi là  hóa thân của một vị Bồ Tát mà người Việt  gọi là Quán Thế Âm Bồ Tát, là vị Bồ Tát của Từ Bi,  một đức tính của Nhà Phật. Ngài thông cảm với những người có tinh thần đấu tranh quyết tử, nhưng tâm từ bi thì luôn hướng về sự thuyết phục hòa bình.

Nhìn về quê hương Tây Tạng, Ngài là một nhà lãnh đạo tài ba, nhìn ra thế giới bên  ngoài, Ngài là người có công hoằng pháp vĩ đại nhất của Phật giáo. Thông điệp về hòa bình và từ bi của đạo Phật đã như những giọt nước cam lồ tưới mát cho hiện trạng nóng bỏng của thế giới ngày nay. Chưa khi nào sức bành trướng của Phật Giáo mạnh mẽ như ngày nay, một phần nhờ vào Đức Lạc Lai lạt Ma, vị Tăng Thống  Phật Giáo Tây Tạng. Ngài được coi như một Đức Giáo Hoàng của Phật Giáo.

Ảnh hưởng của Ngài  không chỉ hạn  hẹp trong lãnh vực chính trị của Tây Tạng mà trong cách suy nghĩ và cách sống của rất nhiều người qua những luận giải của Ngài về Phật Giáo. Luận giải của Ngài giúp nhiều người thức tĩnh và nhớ tới ánh sáng Từ Bi của Đạo Phật, trong  thế giới âm u ngày nay.

Ngoài việc nhấn mạnh đến Từ Tâm như một bản sắc rực rỡ của Đạo Phật, Đức Đạt Lai Lạt Ma còn hiện đại hóa Phật Giáo cho Thế Kỷ 21. Ngoài hai đóng góp lớn về lòng Từ Bi và tinh thần hiện đại hóa, Đức Đạt Lai Lạt Ma còn thể hiện đức tính cung kính và khiêm nhường.

Là một nhà lãnh đạo lưu vong, Đức Đạt Lai Lạt Ma thấu hiểu tâm trạng của những người Việt lưu vong. Thế giới ngày nay đầy dẫy những oán thù, xung đột và cả khủng bố, Ngài đề cập đến vấn đề Việt Nam  như sau. Tinh thần Tây Tạng không chỉ là ý  thức chính trị, là lòng khát khao tự do, mà cũng là một sức mạnh tâm linh nhắm vào sự giải thoát bằng lòng từ bi. Lòng từ bi là chân tánh của chúng ta. Trong nhiều hoàn cảnh, chân tánh ấy có thể bị đe dọa. Khi để thù hận nổi lên, mình đánh mất lòng từ bi, nghĩa là mình đã thua. Sự giác ngộ  giúp chúng ta vượt chặng đường khổ ải mà vẫn giữ được từ tâm  đối với những người làm mình khổ.

Nói về Phật tử, Đức Đạt Lai Lạt Ma khuyên đừng nghĩ tới việc xây chùa hay sự giải thoát cho bản thân mình dưói mái chùa. Ngài cảnh tĩnh các Tăng Ni là phải mở rộng ra thế giới bên ngoài,  đừng chấp vào những lễ tục bí hiểm trong chùa với chiêng trống om xòm. Hãy  bước ra khỏi chùa,  tham gia vào các sinh hoạt xã hội . Từ đó mình hiểu được các vấn đề của xã hội , của con người và tìm ra những giải đáp cho các vấn đề ấy bằng giáo lý Phật Giáo.

Và trong mọi hoàn cảnh, tình huống, không bao giờ đánh mất lòng từ bi của mình. Nuôi dưỡng từ tâm chẳng những có lợi cho sức khỏe  bản thân mà còn ích lợi cho đời sống và  cho hòa bình của nhân loại.

Nói về Việt Nam, Đức Đạt Lai Lạt Ma viết trong một thông điệp gởi cho Nhật Báo Việt Báo: ” Dân Tộc Việt Nam cũng đã trải qua một chấn động lớn trong Thế Kỷ hai mươi và đã vượt qua rất nhiều thử thách như dân Tây Tạng. Tôi tin rằng cùng chịu ảnh hưởng rất nhiều của Phật Giáo, hai nền văn minh Tây Tạng và Việt Nam có rất nhiều điểm tương đồng. Mỗi nền văn  minh lại có một lịch sử lâu dài, đa sắc đa diện và ngay trong hiện tại, nền văn hóa phong phú mà thực chất là sự hiếu hòa của chúng ta hàm chứa một khối kinh nghiệm hữu ích nếu được quảng bá cho các nền văn  minh khác. “

(Kết hợp với tài liệu từ Việt Báo  và www.dalaidamadc.org)

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.
Gần đây, Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố áp dụng chính sách áp thuế 25% đối với ô tô nhập khẩu vào Mỹ, trước đó Trump cũng đã áp đặt biện pháp trừng phạt chung đối với Liên Âu, Canada, Mexico và Trung Quốc, nhưng lại tạm hoãn trong 30 ngày để cho Canada và Mexico thương thuyết. Các biện pháp bất nhất này gây nhiều hoang mang cho chính giới và doanh nghiệp các nước đối tác.
Trong buổi phỏng vấn ngày 31 tháng 10 năm 2024 với bình luận gia cánh hữu Tucker Carlson, Tổng thống Donald Trump khẳng định rằng dưới thời Joe Biden, Hoa Kỳ đã mắc sai lầm nghiêm trọng khi vô tình đẩy Nga và TQ lại gần nhau. Theo Trump, một trong những ưu tiên hàng đầu khi ông quay trở lại Tòa Bạch Ốc sẽ là phá vỡ liên minh này. Khi đó, Trump tự tin tuyên bố: “Tôi sẽ phải tách họ ra, và tôi tin mình sẽ làm được.” Và ngay từ những ngày đầu của nhiệm kỳ thứ hai, Trump đã tỏ rõ mong muốn đàm phán với Nga nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh ở Ukraine. Một cách giải thích cho chính sách này là: Trump đang làm đúng những gì từng nói trong cuộc trò chuyện với Carlson. Việc rút Hoa Kỳ khỏi cuộc xung đột tại Âu Châu và khôi phục quan hệ với Moscow, kể cả khi phải bỏ rơi Ukraine, là một phần trong chiến lược tập trung đối phó với TQ.
Cuộc đua vào Tòa án Tối cao Wisconsin rất quan trọng vì nó ảnh hưởng lớn đến các vấn đề pháp lý và chính sách trong tiểu bang. Wisconsin là một bang chiến địa quan trọng trong các cuộc bầu cử tổng thống Mỹ. Tòa tối cao tiểu bang có thể đóng vai trò lớn trong các tranh chấp liên quan đến luật bầu cử, quyền tiếp cận lá phiếu và các thách thức đối với kết quả bầu cử. Cuối cùng, sự lo lắng có cơ sở của người dân cuối cùng đã được hóa giải. Số tiền “đầu tư” $20 triệu của Musk đã không thắng được sự lựa chọn của Wisconsin.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.