Hôm nay,  

Khi Cuba Có Dầu Hỏa

06/11/200800:00:00(Xem: 11279)

Khi Cuba Có Dầu Hỏa

Tuấn Minh (VNN)
Trong số bốn nước còn lại trên thế giới vẫn theo chế độ cộng sản (Cuba, Bắc Hàn, Trung Cộng và Việt Cộng) thì quốc gia ở Nam Mỹ là nước bị Hoa Kỳ chơi ép nhất, mà lý do để biện minh nhiều phần thiếu tính thuyết phục. Thật vậy, Hoa Kỳ đã mở cửa và hợp tác mạnh mẽ từ lâu với Trung Cộng chỉ vì quyền lợi kinh tế cấp thời, ham đồ với giá rẻ mà nhiều khi không chịu nghĩ đến cái hại về lâu dài đối với đối thủ đáng ngại và có thể dễ dàng quay sang đối đầu. Sau đó, Hoa Kỳ cũng đã hợp tác với CS Việt Nam, kẻ thù cũ trong cuộc chiến hơn ba thập niên về trước, mà quyền lợi thu về cho Hoa Kỳ thật ra cũng chẳng đáng là bao, ngoại trừ yếu tố được nhiều người nói đến là mong giữ được một đồng minh mới để kềm chân Trung Cộng trong tương lai khi cần thiết. Riêng với Bắc Hàn thì Hoa Kỳ không có quyền lợi cụ thể nào hết, cũng như không có sự lo sợ nào cho sự an nguy của mình, ngoại trừ nhiệm vụ hiện hữu để bảo đảm cho sự an ninh của hai đồng minh là Nhật Bản và Nam Hàn. Ấy vậy mà cuối cùng dường như Hoa Kỳ cũng sẵn sàng nới lỏng sự kềm kẹp với quốc gia này, chẳng hạn như sắp loại bỏ tên ra khỏi danh sách các nước khủng bố để mở màn cho giai đoạn bình thường hoá quan hệ ngoại giao.
Nhưng với Cuba thì khác. Hoa Kỳ, dưới thời chính quyền Bush, vẫn cương quyết giữ vững lập trường "chống Cộng đến cùng", quyết giữ vững chính sách cô lập ngoại giao và cấm vận kinh tế, khởi đi từ năm 1962 sau vụ tấn công ở Vịnh Con Heo nhằm lật đổ Fidel Castro bị thất bại, cho dù đã có nhiều vị dân cử phe Cộng Hoà đã không còn ủng hộ chính sách này nữa. Và thật ra thì ảnh hưởng của khối di dân gốc Cuba ở Miami cũng không còn mạnh để tác động lên chính sách toàn quốc của Hoa Kỳ. Vì giống như các khối di dân khác, nếu như thế hệ cao niên vẫn còn sắt son với lý tưởng chống chế độ cộng sản ở Cuba và nuôi mộng một ngày nào đó lật đổ được thể chế độc tài Castro thì thế hệ con em của họ không còn quan tâm đến vấn đề đó nữa. Ấy là chưa kể dân gốc Cuba không còn chiếm một đa số đáng kể tại tiểu bang Florida, và những di dân gốc Nam Mỹ khác không hẳn chia sẻ cùng quan niệm chống lại Cuba như họ.
Từ vài năm qua, đã có nhiều tiếng nói kêu gọi Hoa Kỳ nên thay đổi chính sách cứng rắn đối với Cuba để đẩy mạnh các phong trào hay dịch vụ giao thương hoặc du lịch với hai nước, được coi như là một phương tiện hữu hiệu và êm dịu nhất để giúp thay đổi bộ mặt của một chế độ độc tài, tương tự như quan niệm của các chính quyền Mỹ đối với Trung Cộng và Việt Cộng. Nhiều vị dân biểu và nghị sĩ Cộng Hoà đã đệ nạp những dự luật nhằm cho phép các hãng dầu của Mỹ được phép làm ăn với Cuba, ít ra là có thể khai thác ngoài khơi đảo quốc này để mong tìm được những nguồn dầu hoả, nếu có, sẽ dễ dàng phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ to lớn của Hoa Kỳ. Trong cuộc vận động tranh cử hiện nay, không thấy hai vị ứng viên có lên tiếng về chuyện này, nhưng nhiều người nhận định rằng một vị tổng thống phe Dân Chủ như ông Obama có lẽ sẽ dễ dàng lắng nghe những tiếng nói để có thể thay đổi chính sách. Nhất là trong tình hình mới đây khi hãng dầu quốc doanh Cubapetroleo, viết tắt là Cupet, vừa đưa ra một tuyên bố khá động trời là khối lượng dầu hoả ngoài khơi Cuba được ước tính lên đến 20 tỷ thùng. (Để dễ so sánh, Hoa Kỳ có khối lượng dầu hoả vào khoảng 29 tỷ thùng).
Từ nhiều thập niên qua, người dân Cuba nhìn về hướng bắc để chỉ mơ tưởng về một làn sóng có thể đẩy đưa những con thuyền mong manh đưa dân tị nạn đến được bến bờ Florida của đại lân bang ở phía bắc là Hoa Kỳ để mong hưởng được một đời sống tự do và tốt đẹp hơn. Nhưng gần đây, họ có thể bắt đầu mơ tưởng về một niềm tin mới, có thể giúp đem lại trù phú cho đất nước mình, khi những nhà địa chất học đưa ra những bản thẩm định mới cho rằng có khoảng từ 5 đến 10 tỷ thùng dầu đang nằm dưới lòng biển ngoài bờ biển Cuba về phía tây bắc. Nếu điều này là hiện thực, thì biết đâu nó sẽ giúp cho Cuba, quốc gia duy nhất trên bán cầu này còn theo thể chế cộng sản, thoát khỏi vòng lệ thuộc vào các nước có nhiều dầu hoả như Liên Sô (lúc xưa) hoặc Venezuela (ngày nay). Và từ đó có thể nhanh chóng vượt ra khỏi vòng nghèo khó.
Thật ra thì Cuba đã có dầu hoả từ lâu. Nhưng Cuba chỉ sản xuất được mỗi ngày cỡ 60,000 thùng, nhưng nhu cầu tiêu thụ mỗi ngày lại lên đến 150,000 thùng. Vì thế cho nên Cuba lúc nào cũng cần phải nhập cảng dầu thô, hay đúng hơn là cần sự tiếp tế vì nền kinh tế nghèo nàn của Cuba không đủ sức để trang trải chi phí mua hàng nhập cảng. Lúc xưa vai trò của đồng minh hảo tâm là Liên Sô, nhưng sau này là Venezuela, mỗi ngày cung ứng với giá rẻ cho Cuba khoảng 100,000 thùng.
Vào năm 2004, Cơ quan giám định địa chất của chính phủ Mỹ (US Geological Survey, USGS) đưa ra con số thẩm định đầu tiên từ 5 đến 10 tỷ thùng, ước lượng nằm ở vùng tây bắc ngoài khơi, thường được gọi là Vùng Đặc Quyền Kinh Tế (Exclusive Economic Zone, EEZ). Nhưng trong một cuộc họp báo vào tuần trước, hãng dầu Cupet đã đưa ra con số thẩm định mới to lớn hơn nhiều là 20 tỷ. Ông Rafael Tenreyro, giám đốc ban thăm dò, còn nói với các phóng viên rằng "đây không phải là chuyện đùa". Ông cho rằng bản thẩm định mới được dựa trên những nghiên cứu mới nhất để so sánh về những điểm tương đồng giữa các mỏ dầu tại Cuba với các mỏ dầu khác trong vùng Vịnh Mễ Tây Cơ. Ông nói: "Chúng tôi có nhiều dữ liệu hơn USGS," nhưng không đưa thêm những bằng chứng cụ thể nào khác.
Nhiều người đã tỏ ra hoài nghi về con số quá lạc quan này, và cho rằng đó có thể là một mánh khoé để kích động sự tò mò của các hãng dầu hoả muốn đầu tư trở lại, giữa lúc mà giá dầu đang tụt dốc gần đây có thể khiến nhiều người bớt hăng hái. Cuba càng ngày càng mong muốn có nhiều hãng dầu quốc tế chịu nhảy vào để đầu tư trong các công trình thăm dò và khai thác rất tốn kém trong bước đầu. Nhất là trước áp lực hiện nay của giá dầu thô giảm, sẽ khiến cho đồng minh Venezuela bị mất bớt lợi nhuận và sẽ khó khăn hơn để giúp đỡ hết mình cho Cuba. Đó là nhận định của ông Jorge Pinon, một chuyên gia nghiên cứu về dầu hoả tại Cuba hiện đang làm việc tại Đại học Miami, khi cho rằng phía Cuba đang bị áp lực để tìm cách đẩy mạnh chương trình phát triển tài nguyên dầu hoả trong nước.


Nhưng cũng có nhiều chuyên gia độc lập khác đưa ra những nhận định thuận lợi khác. Ông Chris Schenk, trưởng toán điều hợp của USGS tại vùng biển Caribbean đã làm cuộc thăm dò vào năm 2004 và đưa đến con số từ 5 đến 10 tỷ thùng, cũng công nhận rằng các chuyên gia địa chất học của Cuba "rất xuất sắc". Tuy vậy, ông cũng nói thêm rằng "chúng ta mong muốn nhìn thấy thêm nhiều dữ kiện nữa" và lấy làm tiếc rằng tình hình cấm vận hiện nay, cộng thêm những chính sách cô lập thông tin của Cuba đã khiến cho nhiều chuyên gia không thể hội thoại nhiều hơn để tìm hiểu. Một chuyên gia khác là ông Jonathan Benjamin-Alvarado, một phân tích gia làm việc tại trường Đại học Nebraska, đã nhận định: "Nếu đúng là 20 tỷ thùng, thì quả là một sự chấn động có khả năng thay đổi cục diện." Tuy không hoài nghi về khả năng của các nhà địa chất học ở Cuba, nhưng ông Benjamin-Alvarado cho rằng con số 20 tỷ là quá đáng: "Tôi tin tưởng họ là những chuyên gia nghiên cứu về dầu hoả, và những con số đọc được từ các cuộc đo lường về địa chất có thể đúng, nhưng cho đến khi nào chúng ta thấy được những con số khác, từ những chuyên gia độc lập khác, thì những con số mới này vẫn còn bị hoài nghi."
Tuy vậy cũng đã có vài hãng dầu quốc tế bắt đầu nhảy vào để thử thăm dò. Đầu tiên là công ty năng lượng Repsol-YPF của Tây Ban Nha đã ký một hợp đồng liên doanh với Cupet, và sẽ bắt đầu thăm dò khoan dầu tại vùng EEZ vào đầu năm 2009. Tiếp đến là các công ty năng lượng khác như StatoilHidro của Na Uy và Oil & Natural Gas Corp. (Công ty Dầu và Khí) của Ấn Độ. Công ty năng lượng quốc doanh của Venezuela là Petroleos de Venezuela lại không được xem là sẽ đóng vai trò quan trọng vì không có khả năng và kinh nghiệm trong lãnh vực khoan dầu ngoài biển sâu. Các hãng dầu của Trung Cộng cũng có thể ngắm nghé đến trong tương lai, nhưng cho đến nay chỉ chú trọng vào việc khai thác dầu hoả trên đất liền tại Cuba. Chính phủ Cuba hiện đang có những thảo luận quan trọng với hãng dầu Petrobras của Ba Tây, là công ty vừa mới khám phá kho dầu lớn ngoài bờ biển gần thành phố Rio de Janeiro. Nếu những cuộc điều đình này đi đến thoả thuận, thì Petrobras sẽ là một bạn hàng hợp tác quan trọng đối với Cuba trong ngành khai thác dầu ngoài khơi.    
Tuy vậy, tất cả những hợp đồng này cũng chỉ mới chiếm 1/4 diện tích to lớn khoảng 43,000 dặm vuông của vùng EEZ mà Cuba muốn khai thác. Hầu hết các chuyên gia đều nhận định rằng lý do chính khiến các công ty năng lượng ngần ngại nhảy vào thị trường Cuba vì những khó khăn cơ bản và hạ tầng cơ sở một khi muốn làm ăn tại đây. Bởi vì nếu muốn nhập cuộc, các công ty này phải đầu tư rất nhiều từ vốn liếng, cơ sở, dụng cụ, và kiến thức cùng với nhân viên chuyên môn. Hơn nữa, địa thế của Cuba mỗi năm dễ gánh chịu nhiều trận cuồng phong thổi vào với sức tàn phá kinh khủng cũng khiến cho việc khai thác không dễ dàng và êm thắm. Đó cũng là lý do khiến cho công ty năng lượng Sherritt của Gia Nã Đại mới đây cũng đã rút ra khỏi giao kèo khai thác tại Cuba.
Theo chuyên gia Benjamin-Alvarado thì quốc gia duy nhất có thể cung ứng vốn liếng và khả năng chuyên môn hữu hiệu nhất để khai thác dầu hoả tại bờ biển Cuba không ai khác hơn chính là Hoa Kỳ. Nếu như Cuba có thể chứng minh một cách khá xác tín về kho tài nguyên lên đến 20 tỷ thùng để khai thác, thì việc thu hút các quốc gia đầu tư khác như Ba Tây cũng không phải là điều khó. Câu hỏi được đặt ra là trong trường hợp đó, liệu Hoa Kỳ có sẵn sàng tháo gỡ hàng rào cấm vận để nhập cuộc hay không" Ông Kirby Jones, chủ tịch của Hội Mậu Dịch Hoa Kỳ và Cuba, một trong những người chống đối chính sách cấm vận, cho rằng các chuyên viên của Cupet đã chứng tỏ khả năng chuyên môn đáng tin cậy của mình trong quá khứ, và do đó ông có thể tin rằng những con số thẩm định mới này không có gì là quá đáng. Trong trường hợp đó, câu hỏi đặt ra cho Hoa Kỳ, theo ông Jones, sẽ là: "Hoa Kỳ sẽ trả giá như thế nào nếu như tiếp tục chính sách cấm vận" Nó sẽ làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt của Cuba và khiến cho Hoa Kỳ sẽ không còn ảnh hưởng đáng kể nữa."
Điều này có thể đúng, nhưng trong tương lai gần, theo nhận định của nhà báo Tim Padgett, trong một bài phân tích đăng trên tạp chí Time đề ngày 23-10-08, thì những con số khám phá mới tại Cuba có thể khiến cho áp lực muốn khai thác dầu hoả ngoài khơi Hoa Kỳ sẽ càng tăng cao. Phó tổng thống Dick Cheney và nhiều viên chức cao cấp khác trong chính quyền Bush thường biện minh cho những tài nguyên mới khám phá tại Cuba là lý do chính đáng để mở rộng việc khai thác dầu hoả tại bờ biển của Mỹ. Những cuộc thăm dò dư luận gần đây tại những tiểu bang dọc bờ biển như Florida cho thấy là số đông dân chúng sẵn sàng ủng hộ đường hướng này, tuy rằng những nhà bảo vệ môi sinh vẫn tiếp tục chống đối. Cùng lúc đó, những người ủng hộ biện pháp cấm vận thì tiếp tục vận động tại Quốc Hội để thông qua những dự luật, nếu thành hình, có thể trừng phạt bằng cách từ chối chiếu khán nhập cảnh Hoa Kỳ cho các viên chức điều hành các công ty năng lượng làm ăn tại Cuba. Lập luận của phe này là: nếu như chính quyền Cuba càng có thêm tiền thu về từ dầu hoả, thì chính quyền đó sẽ càng ít bị áp lực hơn để đẩy mạnh các chính sách cải tổ theo mô hình tự do dân chủ.
Nhận xét này có lẽ đúng. Tuy vậy, mối tương quan giữa hai lân bang Hoa Kỳ và Cuba xem chừng như vẫn còn giậm chân như trong thời kỳ xung đột của Chiến Tranh Lạnh. Và vì thế cho nên, cho dù có khám phá hay không con số 20 tỷ thùng dầu ngoài khơi Cuba, thì ở cả hai thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Havana, sự tương quan này cũng chưa chắc thay đổi dễ dàng hoặc nhanh chóng.  
Tuấn Minh

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chúng ta đang làm nhân chứng cho một cuộc bầu cử kỳ quặc và đa sự chưa từng xảy ra trong lịch sử đầu phiếu ở Hoa Kỳ. Có thể nói, không chỉ lịch sử, mà rộng lớn hơn, chính là "sự cố" văn hóa chưa từng thấy. Bước vào năm 2024, sự tranh đua giữa hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ càng gay go, khốc liệt với âm mưu, độc kế, thủ đoạn, ám toán, bôi nhọ, mánh mung, để xem ai sẽ là chủ nhân của ngôi Nhà Trắng trong bốn năm tới. Tất cả những ý nghĩ, hành vi đó đều gôm vào chính sách, chiến lược và chiến thuật vận động bầu cử. Bạn đọc sẽ có dịp theo dõi các thầy bàn người Mỹ và thầy bàn người Việt (trong và ngoài nước) phong phú hóa, hư cấu hóa, ảo tưởng hóa về việc bầu cử, tạo ra câu chuyện nửa thực, nửa hư, thú vị, bất ngờ với giận dữ và thất vọng, sung sướng và buồn bã, rung đùi và cụng ly, nguyền rủa và chửi bới, vân vân. Thông thường những luận lý, âm mưu, phê phán, dự đoán đó… được mổ xẻ qua kiến thức và kinh nghiệm tây phương, nơi có hàng ngàn sách vở nghiên cứu chính trường, chính đạo,
Chúng ta đang bước vào năm bầu cử. Năm 2024 sẽ có một cuộc bầu cử có tính quyết liệt, vì các lựa chọn chắc chắn sẽ gây tranh cãi trong nội bộ cộng đồng gốc Việt, trong các gia đình người Việt, giữa các lựa chọn về cấp tiến và bảo thủ, giữa các thế hệ trẻ và già ở hải ngoại. Và chắc chắn là bầu cử tháng 11/2024 tại Hoa Kỳ sẽ ảnh hưởng tới cuộc chiến Trung Đông, cuộc chiến ở Ukraine, và ở cả Đài Loan. Tác động như thế nào, chúng ta khó đo lường hết tất cả các ảnh hưởng. Trong đó, một tác động lớn là từ tin giả, nói kiểu Mỹ là Fake News, tức là tin không thật.
Tôi rất thích khoa nhân chủng nhưng không có cơ may đến trường để được truyền thụ một cách bài bản về ngành học thú vị này. Hoàn cảnh sống, nói nào ngay, cũng không mấy thích hợp cho nhu cầu tự học. Suốt ngày (và suốt đời) tôi chỉ loanh quanh hàng quán nơi mà những kẻ hay lê la thường nói rất nhiều, dù sự hiểu biết của họ vốn không được bao nhiêu. Ngoài giới hạn về kiến thức, mấy ông bạn đồng ẩm còn có cái tật rất hay tranh cãi (và luôn cãi chầy cãi cối) nên mọi thông tin, từ bàn nhậu, đều không được khả xác hay khả tín gì cho lắm.
“Tham nhũng chính trị, lệch lạc tư tưởng, băng hoại đạo đức và hủ bại về lối sống. Đây là những kẻ thù rất nguy hiểm của Đảng, cần phải loại bỏ.” Tạp chí Xây Dựng Đảng (XDĐ) đã báo động như thế trong bài viết ngày 26/11/2023...
Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) nhìn nhận tình trạng “trẻ hóa” trong suy thoái “tư tưởng chính trị ” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang gây khó khăn cho công tác “xây dựng, chỉnh đốn đảng”...
Năm 2024 là năm bầu cử, một năm gay go thử thách, và đề tài yêu ghét dù muốn hay không muốn đã trở lại trên các trang báo, trong các buổi tranh luận trong gia đình, ngoài xã hội. Chúc bàn tiệc trong năm của quý vị rôm rả những câu chuyện, những cuộc đối thoại bổ ích hai chiều, những thay đổi tốt đẹp. Và xin cảm ơn quý thân hữu, thân chủ đã hỗ trợ, gắn bó cùng hành trình với Việt Báo trong hơn 31 năm qua. Sau cùng là lời tri ân đến các độc giả Việt Báo: chính quý vị, những người đọc khó tính là thành trì giúp Việt Báo trở thành một tờ báo uy tín, chuyên nghiệp.
Năm 2023 tiến vào những ngày cuối cùng, nó sẽ đi qua và không bao giờ trở lại. Lịch sử sẽ đi qua nhưng những việc làm của con người sẽ tồn tại với sự khôn ngoan và ngu ngốc của đa số. Cụm từ ‘con-người-đa-số’ chỉ định ý muốn chung của đa số người. Và ‘con-người-thiểu-số’ đành phải tuân theo. Trò sinh hoạt dân chủ luôn luôn là con dao hai lưỡi có hiệu quả tùy thuộc sở thích của con người đa số. Sở thích? Một thứ tạo ra tốt lành hoặc khổ nạn. Đúng ra là cả hai, nhưng có một trong hai sẽ lớn hơn, đôi khi, lớn gấp bội phần. Nếu khổ nạn quá lớn thì cuộc sống chung sẽ thay đổi, có khi lâm vào mức tồi tệ. Chẳng hạn như trường hợp nước Đức dưới thời Hitler. Ý muốn của con người đa số đam mê nồng nhiệt ý muốn của Hitler. Cho ông ta cơ hội dẫn đầu một quốc gia quyền lực, tạo ra hiệu quả cuộc chiến thế giới thứ hai. Hậu quả tàn khốc đó do ai? Hitler? Đúng một phần.
“Tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong Lực lượng vũ trang nhân dân là mối lo hàng đầu của đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Bằng chứng này đã được Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đưa ra tại Hội nghị Đảng ủy Công an ngày 20/12/2023 tại Hà Nội, và trong nội dung các bài viết trên báo chí chính thống của nhà nước liên quan đến Quân đội...
Người ta nên áp dụng đạo đức vào tài chính trị của Henry Kissinger như thế nào? Làm thế nào để người ta quân bình những thành tựu với những hành vi sai trái của Kissinger? Tôi đã vật lộn với những vấn đề đó từ khi Kissinger là giáo sư của tôi, và sau này là đồng nghiệp tại Đại học Harvard. Vào tháng Tư năm 2012, tôi đã giúp phỏng vấn ông trước một số lượng lớn cử toạ tại Harvard và hỏi liệu ông có làm điều gì khác đi trong thời gian làm ngoại trưởng cho các Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon và Gerald Ford không. Lúc đầu, ông nói không. Suy nghĩ lại, ông nói rằng ước mình là đã hoạt động tích cực hơn ở Trung Đông. Nhưng ông không đề cập đến Campuchia, Chile, Pakistan hay Việt Nam. Một người phản đối ở phía sau hội trường hét lên: "Tội phạm chiến tranh!"
Việt Nam có còn “độc lập” với Trung Quốc hay không sau chuyến thăm Hà Nội của Tổng Bí thư, Chủ tịch nhà nước Tập Cận Bình là thắc mắc của người dân Việt Nam. Ông Tập có mặt ở Việt Nam từ 12 đến 13 tháng 12 năm 2023 và đạt được cam kết của Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng về “xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam-Trung Quốc”.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.