Hôm nay,  

Albert Einstein Và Đức Đạt Lai Lạt Ma

7/28/200800:00:00(View: 7771)
Nguyên tác: Rasoul Sorkhabi; Chuyển ngữ: H.T Thích Trí Chơn

(LGT. Năm 2005 đánh dấu kỷ niệm năm sinh nhật lần thứ 70 của đức Đạt Lai Lạt Ma. Liên Hiệp Quốc cũng tuyên bố  2005 là năm Vật Lý của thế giới và người đã được vinh danh là ông Albert Einstein, nhà đại khoa học phát minh ra Thuyết Tương Đối năm 1905 (cách nay 100 năm) đã từ trần năm 1955 (đúng 50 năm trước). Đây là cơ duyên thuận lợi để chúng ta tìm hiểu tại sao có sự trùng hợp, gặp gỡ giữa hai nhân vật lịch sử vĩ đại này trong thời đại của chúng ta hôm nay, một nhân vật là khoa học gia Tây Phương nổi tiếng và người kia là vị lãnh đạo Phật Giáo mà khắp thế giới đều tôn kính, đã nêu lên một hình ảnh ý nghĩa về sự hợp nhất giữa khoa học và tôn giáo.

 Ghi chú của người dịch: Rasoul Sorkhabi là giáo sư tại Học Viện Nghiên Cứu Năng Lượng và Khoa Địa Chất thuộc Đại Học Utah (Salt Lake City), nơi ông đang sống với người vợ Nhật và cô con gái. Giáo Sư đã thực hiện chương trình nghiên cứu rộng rãi về địa chất ở vùng núi Hy Mã Lạp Sơn (Himalayas). Bài viết gần đây của giáo sư là “Einstein và Tâm Hồn người Ấn Độ: Tagore, Gandhi và Nehru” đăng trên tạp chí “Current Science” do viện Hàn Lâm Khoa Học Ấn Độ (Indian Academy of Science) ấn hành.

*

Nhiều năm qua, nhà khoa học Albert Einstein và đức Đạt Lai Lạt Ma đã ảnh hưởng thu hút tôi rất nhiều. Khi đọc tiểu sử và tác phẩm của hai nhân vật này mà tôi nhận thấy có nhiều sự tương đồng ý nghĩa về cá tính và hoạt động của họ đã chiếu sáng trên mối quan hệ giữa lý trí và tinh thần mà cả hai lãnh vực đều cần thiết cho xã hội và đời sống con người.

Phật Giáo lẫn Khoa Học chủ trương người đi tìm đạo lý hay các định lý khoa học cần dựa vào trí tuệ và kinh nghiệm của chính bản thân họ. Nhà tôn giáo lẫn khoa học không thể tin tưởng một cách mù quáng. Mọi lý thuyết trình bày chỉ có giá trị khi được chứng nghiệm bằng sự tu tập của vị tu sĩ và chứng minh cụ thể của nhà khoa học.

Đặc biệt trong các bài viết cũng như thuyết giảng của đức Đạt Lai Lạt Ma và nhà khoa học Einstein, là những ý tưởng đều xuất phát từ tâm thức và kinh nghiệm bản thân của họ. Khi viết bài này thì cuốn sách đầu tiên để trên bàn tôi đang đọc là tác phẩm “Phật Giáo Tây Tạng và Chìa Khoá Dẫn Đến Trung Đạo” (The Buddhism of Tibet and the Key to the Middle Way) do Tenzin Gyatso, đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14 viết ấn hành năm 1975. Tôi được tặng cuốn sách này vào năm 1982 khi tôi và vợ tôi là Setsuko từ Nhật Bản lần đầu tiên đến Ấn Độ gặp ngài tại thành phố Dharamsala. Tôi cũng đã được đọc tác phẩm của Einstein: “Đại Cương và Đặc Biệt Thuyết Tương Đối” (Relativity: The Special and the General Theory) ấn hành năm 1952.

Hai cuốn sách đều mang tính cách chuyên môn và cả hai tác phẩm đều chịu ảnh hưởng tư tưởng của những người đi trước, nhưng điều đặc biệt thú vị là bút pháp của họ đều giống nhau - giải thích các chủ đề khó hiểu bằng lối diễn đạt rõ ràng, chính xác với ngôn ngữ bình dị và đã trình bày được ngay chính tư tưởng của hai tác giả. Mặc dù sự liên hệ giữa khoa học và tôn giáo là một đề tài hóc búa, phức tạp và gay go, nhưng cả hai khoa học gia Einstein và đức Đạt Lai Lạt Ma đều phát biểu rằng, tôn giáo và khoa học có thể hợp tác, chung sống và đóng góp lợi ích cho sự tiến bộ, phát triển của xã hội con người. Tôn giáo và khoa học thuộc hai lãnh vực kiến thức và thực hành khác nhau, tuy nhiên cả hai đều do nỗ lực của con người và cần thiết cho sự thăng hoa cuộc sống nhân sinh.

Đức Đạt Lai Lạt Ma không phải là nhà tôn giáo theo trào lưu chính thống, duy trì lòng tin cổ truyền vào kinh điển mà ngài cũng đề cao giá trị của nền khoa học hiện đại và tin tưởng rằng tất cả các truyền thống tôn giáo khác nhau đều giúp ích cho nhân loại. Ông Einstein không phải là nhà toán học thiển cận, không nghĩ đến sự phát triển tinh thần và đời sống tâm linh. Trong tác phẩm: “Những năm cuối cùng của đời tôi” (Out of My Later Years), ấn hành năm 1950, tiên sinh viết:

“Tất cả các tôn giáo, nghệ thuật và khoa học là những cành nhánh chung của một thân cây. Những khát vọng này đều nhằm hướng đến sự thăng hoa đời sống của kiếp người, giúp con người vượt khỏi thể giới thuần tuý vật chất và hướng dẫn cá nhân đến sự tự do và giải thoát”.

Trong cùng cuốn sách trên, Einstein cũng xác nhận rằng khoa học thực sự đã giúp cho mục tiêu của tôn giáo, vì khoa học đã dạy cho chúng ta hiểu biết về sự hoà hợp, tương quan và tương duyên của thế giới cũng như kiến thức khoa học về vũ trụ bao la huyền bí này:

“Mỗi ngày hằng trăm lần tôi tự nhắc nhở để thấy rằng đời sống nội tâm và ngoại giới của tôi được xây dựng căn bản trên sức lao động của những kẻ khác và tôi phải cố gắng đáp đền trả ơn lại cho họ, những người mà tôi đã và đang nhận sự giúp đỡ”. Đây là những lời nói của Einstein. Chia xẻ với ý tưởng này, đức Đạt Lai Lạt Ma phát biểu sự tương quan tương duyên phụ thuộc vào nhau của vạn vật, con người và các biến cố xảy ra trên thế gian là ý niệm căn bản của nền khoa học hiện đại và tư tưởng Phật Giáo.

Trong lời phát biểu khi nhận giải Nobel Hoà Bình, đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói: “Chúng ta tuỳ thuộc vào nhau trong mọi sinh hoạt của đời sống. Chúng ta không thể tồn tại khi sống tách rời khỏi xã hội và không biết gì về các sự việc xảy ra bên ngoài cộng đồng của nhân loại. Khi gặp những khó khăn, chúng ta cần giúp đỡ lẫn nhau cũng như nên chia xẻ nguồn vui của chúng ta cho những kẻ khác”. Về mặt triết lý, lời dạy của Đức Đạt Lai Lạt Ma phản ảnh lý “Nhân Duyên Sinh” của Phật Giáo.

Đức Đạt Lai Lạt Ma khuyên dạy chư Tăng không nên có tâm ích kỷ và đắm say của cải vật chất. Ngài đã từng nói: “Tôi chỉ là một nhà sư tầm thường”. Howard Cutler, người cùng chung với ngài viết tác phẩm “Nghệ Thuật Đạt Đến Hạnh Phúc” (The Art of Happiness) bảo rằng đức Đạt Lai Lạt Ma không biết cuốn sách đó đã trở thành tác phẩm bán chạy nhất (bestseller) tại vùng Bắc Mỹ.

Ông Einstein cũng có tâm hồn vị tha hay giúp đỡ mọi người. Một trong những tiểu luận nổi tiếng của ông nhan đề “Thế Giới như Tôi Nhìn Thấy Nó” (The World As I See It) ấn hành năm 1931, Einstein đã viết: “Tôi tin rằng một đời sống giản dị không xa hoa cầu kỳ là rất tốt, hửu ích cho mọi người cả hai phương diện thể xác lẫn tinh thần. Ba mục tiêu mà nỗ lực của con người nhắm đến là của cải, tiền bạc và giàu sang, đối với tôi trở thành vô nghĩa”. Ông đã thực hành những điều ông nói. Chẳng hạn, Einstein đã dùng hết số tiền 30.000 (ba chục nghìn) đô la ông được thưởng trong giải Nobel Vật Lý năm 1921 để giúp đỡ cho bà vợ đầu tiên và mấy đứa con của bà, mặc dù lúc bấy giờ ông đã lập gia đình với người khác.

Einstein đoạt giải Nobel Vật Lý năm 1921, và đức Đạt Lai Lạt Ma được giải Nobel Hoà Bình năm 1989. Hơn nữa, Einstein cũng là nhân vật tích cực vận động cho nền hoà bình thế giới; yêu cầu huỷ diệt các loại võ khí nguyên tử cũng như đòi hỏi quyền làm người, tự do và dân chủ phải được thực hiện tại nhiều quốc gia. Cuộc đời của ông luôn luôn tranh đấu chống bạo động, chiến tranh, chủ nghĩa phát xít và kỳ thị chủng tộc. Vị anh hùng chính trị mà Einstein tôn sùng nhất là Thánh Gandhi của Ấn Độ. Tháng 04 năm 1955, cùng với đại triết gia người Anh, Bertrand Russell, cả hai ông đã phổ biến một bản tuyên ngôn chung, kêu gọi các nhà lãnh đạo trên thế giới nên giải quyết các cuộc khủng hoảng chính trị bằng phương pháp hoà bình.

Gần đây trong một cuộc phỏng vấn, tôi có nghe đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời cho biết rằng nếu có thể ngài phát nguyện vào ở một ngôi chùa và sẽ dành hết thì giờ cho việc tu thiền. Điều này khiến tôi nhớ lại lời ông Einstein bảo rằng: “Công việc của người trông coi ngọn hải đăng thực lý tưởng cho nhà khoa học, vì họ có nhiều thì giờ rãnh để suy nghĩ và làm việc”. Nơi khác, tiên sinh Einstein ghi nhận rằng cuộc đời của ông được phân chia thành giữa “các phương trình và chính trị” nhưng “các phương trình thì sẽ vĩnh viễn tồn tại lâu dài”.

Cả hai ông Einstein và đức Đạt Lai Lạt Ma đều mất tổ quốc. Năm 1933 Einstein trốn thoát chế độ Phát Xít Đức Quốc Xã sang định cư tại Hoa Kỳ. Năm 1959, Trung Cộng đánh chiếm xâm lăng Tây Tạng, đức Đạt Lai Lạt Ma bỏ nước trốn qua tị nạn ở Ấn Độ. Tôi nghĩ kinh nghiệm cuộc sống bản thân của mỗi người này đã giúp cho cả hai nhân vật (Einstein trong cộng đồng người Do Thái và đức Đạt Lai Lạt Ma trong xã hội các Phật tử Tây Tạng), khi ở xứ người, nhận thấy rõ giá trị của sự đóng góp về khoa học, tôn giáo cũng như lịch sử dân tộc của họ vào các nền văn hoá đa dạng của nhân loại trên thế giới.

Đức Đạt Lai Lạt Ma thường bảo rằng cuộc sống tị nạn lưu vong đã giúp ngài có cơ hội tốt để gặp gỡ, tiếp xúc với mọi người đủ thành phần tại nhiều quốc gia và nhờ đó mà ngài đã nhận thức được rằng: “Tất cả chúng ta ai cũng muốn sống có hạnh phúc chứ không thích khổ đau”.

Einstein sinh năm 1879 trong một gia đình Do Thái tại Đức quốc. Đức Đạt Lai Lạt Ma ra đời năm 1935 trong một gia đình nông dân tại quận Amdo ở Tây Tạng. Tiểu sử của hai nhân vật hoàn toàn khác nhau, nhưng tại sao chúng ta nhận thấy có nhiều điểm tương đồng về cá tính và hành động giữa hai con người đặc biệt này" Câu trả lời của tôi là vì cả ông Einstein và đức Đạt Lai Lạt Ma đều đã sống vượt lên trên những thành kiến, cố chấp về tôn giáo cũng như các chủ nghĩa phát xít, quốc gia và duy vật v…v…

Trái lại cả hai đã sống, hành động vì nền hoà bình thế giới, tình yêu thương nhân loại, và phục vụ cứu giúp tất cả mọi người với tấm lòng vị tha. Trong bài nói chuyện với các sinh viên trường Cal Tech năm 1931, Einstein đã phát biểu: “Tôn giáo và khoa học có thể cùng chung đóng góp cho lợi ích của con người”.

Các giải Nobel đã trao tặng cho khoa học gia Einstein và đức Đạt Lai Lạt Ma là biểu tượng cho hai đỉnh cao của tình nhân loại và trí tuệ con người mà hai đại nhân vật lịch sử này đã thành tựu đạt tới qua những phương cách hành động khác nhau. Và từ đỉnh cao đó, ánh sáng rực rỡ của tình thương và sự hiểu biết tuyệt vời của con người đã chiếu toả xuống khắp vạn vật ở trần gian.

Trích tạp chí Phật Giáo “Mandala” số tháng 6 & 7 năm 2005.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tổng Bí thư Tô Lâm hứa “Việt Nam sẽ học hỏi tối đa kinh nghiệm phát triển của Trung Quốc, đặc biệt là sự đổi mới lý luận và thực tiễn của Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới".
...Sau Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai, Mỹ khởi xướng Kế Hoạch Marshall vào năm 1948 để giúp tái thiết kinh tế Châu Âu và ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Khi nhận thấy cần có một cơ quan phát triển phối hợp, Tổng thống John F. Kennedy đã ký lệnh hành pháp 10973 Foreign Assistance Act vào ngày 4/9/1961, và ký thành luật thành lập Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) ngày 3/11, tập trung vào phát triển kinh tế và xã hội trong thời gian dài, thay vì chỉ viện trợ quân sự hoặc khẩn cấp. Cơ quan này được tạo ra để hợp nhất các nỗ lực viện trợ nước ngoài của Hoa Kỳ và thúc đẩy phát triển toàn cầu như một phần của chính sách đối ngoại quốc gia. Thời Chiến Tranh Lạnh, USAID đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản bằng cách cung cấp viện trợ cho các nước ở Châu Phi, Mỹ Latinh và Châu Á. USAID là nguồn là viện trợ chính cho các chương trình phát triển tập trung vào nông nghiệp, y tế, giáo dục và cơ sở hạ tầng. Cuộc Cách Mạng Xanh (Green Revolutio
Với mức áp thuế 10% lên hàng hóa Trung Quốc, liệu đây là những "đòn ngoại giao" như giới ủng hộ Donald Trump luôn bào chữa hay là sự thăm dò? Còn hiện nay, với các phát biểu cầu cạnh, một mức thuế "nhẹ nhàng" như vậy so với hai láng giềng đồng minh lâu đời Mexico và Canada, con đường "đánh Tàu" của Donald Trump trong nhiệm kỳ hai xem ra đã không như người Việt ủng hộ ông kỳ vọng.
Khi Sài Gòn thất thủ, cha của Bình Lý hòa cùng dòng người đi vào “đêm chôn dầu vượt biển.” để lại quê nhà người vợ và hai đứa con trai còn nhỏ. Sau gần 10 năm, cha và mẹ của anh đoàn tụ ở nước Mỹ. Bình chào đời trên xứ sở tự do, mang trên mình căn cứ người Mỹ gốc Việt thế hệ thứ hai. Đúng 50 năm của biến cố 30 Tháng Tư (1975 – 2025), chính anh và những người bạn trẻ khác trong nhóm Viet Place Collective, đã tranh đấu suốt hai năm để thuyết phục giới chức vùng DMV chuẩn thuận cho tên đường Saigon Blvd – Đại Lộ Sài Gòn hiện diện trên một đoạn đường Wilson Blvd thuộc Falls Church.
Mới đây một người bạn online gởi đến một video clip và bản chụp mấy trang trong cuốn Kỷ niệm sân khấu của MC Nguyễn Ngọc Ngạn, hỏi ý kiến tôi về cách ông này kiến giải thành ngữ “Phận con gái mười hai bến nước”. Trong clip -- cắt từ một sản phẩm Paris by Night -- ông Ngạn cho biết trong chương trình trước MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên hỏi ông ý nghĩa của thành ngữ “Phận con gái mười hai bến nước” và lúc đó ông “đoán” ra hai điều: về vần, từ “gái” liền vần với “mười hai” và, về nghĩa, “số 12 trùng với 12 tuổi Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.”
Ngay sau khi nhậm chức, tân Tổng thống Trump đã ký khoảng 100 sắc lệnh hành pháp để giải quyết nhiều vần đề cấp bách cho đất nước. Nhìn chung trong toàn cảnh, có nhiều nhận định tỏ ra dè dặt hơn khi cho rằng, một số sắc lệnh này có hiệu lực pháp lý tức thời, một số khác có lẽ chỉ là một màn trình diễn làm thoả lòng mong đợi của đa số cử tri và một số khác còn cần nhiều thời gian hơn nữa để cho các toà án tái thẩm nội dung. Tại sao các giải pháp này không hữu hiệu như Trump tuyên hứa với toàn dân? Sau đây là ba trường hợp điển hình để biện minh tại sao một kỷ nguyên hoàng kim chưa được khởi đầu...
Nhà nước CSVN đã có một cái nhìn bi quan về tình hình chống tham nhũng, lãng phí và tiêu cực khi bước vào năm 2025, một năm trước Đại hội đảng kỳ XIV để bầu Ban Chấp hành Trung ương nhiệm kỳ 2026-2030...
Thời Hoàng Kim (Golden Age) – khẩu hiệu mới của chính quyền Trump – hiện ra rõ nhất trong buổi lễ nhậm chức không như mong đợi của Trump và những cử tri ủng hộ. Ngồi ở hàng ghế đầu, vị trí xưa nay vốn thuộc về gia đình tổng thống, các cựu tổng thống, và những vị khách danh dự khác, là những tỷ phú giàu nhất thế giới. CEO Meta Mark Zuckerberg và vợ; CEO Amazon Jeff Bezos và hôn thê Lauren Sánchez, CEO Google Sundar Pichai và Elon Musk, người giàu nhất thế giới đã dựng “bệ phóng Space X” đưa Trump trở lại Tòa Bạch Ốc, đã soán chỗ của các tổng thống tiền nhiệm. Điều này đối lập hẳn với những phát ngôn tranh cử khi Trump luôn xem mình là một tổng thống đứng cùng tầng lớp trung lưu và lao động.
Nếu chúng ta, trong thị trường giải trí, từng một thời ướt át “tân cổ giao duyên” thì bây giờ người Mỹ, trong “thị trường chính trị”, như là biến thể mới nhất của nền chính trị quốc gia, đang khô khốc với sát khí “chăn lái giao duyên”. Nước Mỹ của thế kỷ 21, xem ra, đang đối mặt với nguy cơ tụt lùi về thế kỷ 19 của chủ nghĩa tư bản hoang dã và chủ nghĩa thực dân.
Ngày 20 tháng 1 năm 2025, lịch sử Hoa Kỳ lật qua một trang sử mới. Qua một thủ tục chuyển quyền hiến định, tổng thống đắc cử Donald Trump tuyên thệ nhậm chức Tổng thống thứ 47 và sẽ thay đổi một số chính sách cơ bản cho nhiệm kỳ sắp tới...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.